Sáng nay, Quốc hội Việt Nam thông qua hai hiệp định EVFTA và EVIPA

0

Sáng hôm nay ngày 8/6, Quốc hội đã tiến hành thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định EVFTA và EVIPA. Đây là hai văn kiện quan trọng được ví là “tuyến đường cao tốc quy mô lớn, hiện đại” đưa thị trường EU gần hơn với Việt Nam.

Đối với EVFTA, có 457 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết (chiếm 94,6% tổng số đại biểu), đã có 457 phiếu tán thành, không tán thành là 0, không biểu quyết 0. Đối với EVIPA, có 462 đại biểu tham gia biểu quyết, số phiếu tán thành là 461, không tán thành là 0, không biểu quyết 1.

Sáng nay, Quốc hội Việt Nam thông qua hai hiệp định EVFTA và EVIPA
Sáng nay, Quốc hội Việt Nam thông qua hai hiệp định EVFTA và EVIPA

Trước đó, tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9, sáng 20/5/2020, Quốc hội đã nghe Tờ trình, báo cáo thuyết minh và báo cáo thẩm tra về việc đề nghị Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) – một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU.

Trình bày Tờ trình của Chủ tịch nước về việc đề nghị Quốc hội phê chuẩn Hiệp định EVFTA, Phó Chủ tịch Nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho biết, Hiệp định EVFTA gồm 17 Chương, 8 Phụ lục, 2 Nghị định thư, 2 Biên bản ghi nhớ và 4 Tuyên bố chung.

Hiệp định này điều chỉnh nhiều vấn đề, bao gồm: Thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp Nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý – thể chế.

Với mức độ cam kết đạt được, EVFTA được coi là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên.

Theo Tờ trình của Chủ tịch nước, bên cạnh những thuận lợi, Hiệp định có thể mang lại một số thách thức nhất định.

Thứ nhất, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường với hàng hóa, dịch vụ cho EU, tạo ra sức ép cạnh tranh nhất định cho nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ của ta.

Tuy nhiên, đây là sức ép cạnh tranh lành mạnh, có chọn lọc và theo lộ trình phù hợp. Mặt khác, do cơ cấu kinh tế của EU và Việt Nam mang tính bổ sung rất cao, không đối đầu trực tiếp nên dự kiến sức ép cạnh tranh sẽ không lớn.

Ngoài ra, cam kết mở cửa của Việt Nam là có lộ trình, đặc biệt đối với những nhóm sản phẩm nhạy cảm, nên EVFTA cũng là cơ hội, sức ép hợp lý để các doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh, thay đổi phương thức kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

Thứ hai, EVFTA bao gồm những quy định, quy tắc chặt chẽ về thủ tục đầu tư, hải quan, thuận lợi hóa thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp kiểm dịch động, thực vật, sở hữu trí tuệ, mua sắm của Chính phủ, phát triển bền vững… để thực hiện đầy đủ các quy định này đòi hỏi cải cách hệ thống pháp lý của ta.

Tuy nhiên, việc này cũng phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục hành chính, tăng cường hiệu quả của mua sắm công, đối mới mô hình tăng trưởng, Chính phủ cũng đã và đang triển khai hết sức chủ động, khẩn trương.

Thứ ba, các cam kết về lao động trong đó bao gồm việc cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp hay việc thành lập Nhóm tư vấn trong nước (DAG) để thực thi các cam kết về thương mại và phát triển bền vững với sự tham gia của đại diện người lao động, đại diện các doanh nghiệp, các nhà khoa học và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam có thể làm gia tăng sức ép về giám sát xã hội trong quá trình thực thi Hiệp định và từ đó đặt ra những thách thức nhất định đối với Việt Nam.

Theo CafeF

Tiki và Sendo đạt được thỏa thuật sát nhập

0

Một nguồn tin đáng thân cậy đã xác nhận về thương vụ đồn đoán giữa hai nền tảng thương mại điện tử Tiki.vn và Sendo.

Theo tờ DealSteetAsia, một trang tin về các thương vụ sát nhập mua bán, cho hay các cổ đông JD.com của Tiki hay SoftBank Ventures Asia của Sendo đã thống nhất với nhau sẽ sát nhập hai công ty này.

Tiki và Sendo đạt được thỏa thuật sát nhập
Tiki và Sendo đạt được thỏa thuật sát nhập

Nhân sự của hai sàn đang tiến hành các thủ tục sát nhập với nhà chức trách Việt Nam. Một số người cho rằng việc sát nhập sẽ giúp tạo ra một tiềm lực mạnh mẽ hơn để đối trọng với hai doanh nghiệp nước ngoài là Lazada và Shopee.

Tuy nhiên, cũng có một số khác cho rằng, hiện Tiki vận hành khá tốt và không cần phải rước thêm ‘gánh nặng’ khi sáp nhập với Sendo. Bởi ngành thương mại điện tử Việt Nam cạnh tranh khốc liệt nên các doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều vào quảng cáo, hạ tầng kho bãi, nguồn nhân lực… nhằm định vị tên tuổi của mình trên thị trường.

Hiện tại, đại diện của hai bên vẫn chưa đưa ra lời xác nhận nào về thông tin này nhưng cũng không đưa ra bác bỏ lời đồn đoán nói trên.

Tiki được thành lập và điều hành bởi ông Trần Ngọc Thái Sơn, Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tiki. Hiện, Công ty Cổ phần VNG đang nắm giữ 24,6% cổ phần của Tiki. Ngoài ra, Tiki còn được rót vốn bởi quỹ đầu tư mạo hiểm của chính phủ Singapore là EDBI, VNG, JD.com, đến các nhà đầu tư từ Hàn Quốc như STIC, KIP; đến từ Nhật Bản như CyberAgent Ventures, Sumitomo… Đây là các quỹ đầu tư mạo hiểm vào lĩnh vực công nghệ trên thế giới cũng như khu vực châu Á.

Còn Sendo được thành lập bởi tập đoàn FPT. Tại thời điểm tháng 6/2019, có 9 cổ đông nước ngoài nắm 57,31% vốn tại Sendo. Trong 9 cổ đông nói trên, SBI E-Vietnam Pte. Ltd (Singapore) sở hữu nhiều nhất, với 20,65% cổ phần và theo sau đó là Econtext Asia Ltd (Trung Quốc) với 10,57%.

Theo Bản đồ thương mại điện tử Việt Nam của iPrice Group, Tiki và Sendo là 2 sàn thương mại điện tử nội địa thuộc top 4 website thương mại điện tử tại Việt Nam xét theo lượng truy cập. Danh sách này bao gồm: Shopee Việt Nam, Lazada Việt Nam, Tiki và Sendo.

Mặc dù có sự tăng trưởng về lượng người sử dụng nhưng top 4 sàn thương mại điện tử hàng đầu là Shopee Việt Nam, Lazada Việt Nam, Tiki và Sendo vẫn liên tục lỗ. Tính đến cuối năm 2018, lỗ lũy kế của Tiki là gần 1.400 tỷ đồng còn Sendo lỗ gần 1.300 tỷ.

Theo VietnamBusinessInsider

Chuỗi cung ứng toàn cầu trước làn sóng M&A của Trung Quốc hậu Covid 19

0

 Với sự hội tụ hoàn hảo của các yếu tố về nhân công, lao động là các kỹ sư trình độ công nghệ cao, hệ thống hậu cần toàn diện và chính sách thuế ưu đãi, Trung Quốc trở thành đơn vị outsourcing lí tưởng cho các tập đoàn công nghệ lớn trên toàn cầu. Tuy nhiên, đại dịch Covid 19 đã hình thành một quan niệm khác về “công xưởng của thế giới”, khi mà thay cho “outsourcing” (thuê ngoài), chính phủ Mỹ bắt đầu sử dụng từ ngữ mới là “expensing”.

Chuỗi cung ứng toàn cầu trước làn sóng M&A của Trung Quốc hậu Covid 19
Chuỗi cung ứng toàn cầu trước làn sóng M&A của Trung Quốc hậu Covid 19

1. Chuỗi cung ứng dịch chuyển

Với sự hội tụ hoàn hảo của các yếu tố về nhân công, lao động là các kỹ sư trình độ công nghệ cao, hệ thống hậu cần toàn diện và chính sách thuế ưu đãi, Trung Quốc trở thành đơn vị outsourcing lí tưởng cho các tập đoàn công nghệ lớn trên toàn cầu. Tuy nhiên, đại dịch Covid 19 đã hình thành một quan niệm khác về “công xưởng của thế giới”, khi mà thay cho “outsourcing” (thuê ngoài), chính phủ Mỹ bắt đầu sử dụng từ ngữ mới là “expensing”. Theo đó, nước này sẵn sàng chi trả 100% chi phí cho các công ti Mỹ rút dây chuyền sản xuất khỏi Trung Quốc và chuyển sang Mỹ hoặc các nước tiềm năng khác. Báo cáo mới nhất của tờ The Economics cũng chỉ ra rằng đang có sự đảo ngược của xu hướng toàn cầu hóa trở thành nội địa hóa, khu vực hóa chuỗi cung ứng trong thời gian tới.

Điều này không khó lí giải vì sự sự phụ thuộc ngày càng mạnh mẽ vào “công xưởng thế giới” chắc chắn là mối đe dọa tiềm ẩn đối với các cường quốc. Thêm vào đó, bài học từ sự kiện khủng hoảng dầu mở 1973 hay sự cắt giảm lượng đất hiếm xuất sang Nhật của Trung Quốc năm 2010 và hiện tại là sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu xuất phát từ Trung Quốc do dịch Covid 19 đã thúc đẩy xu hướng giảm tối đa sự lệ thuộc vào một thị trường hoặc một đối tác có tính chi phối.

2. Trung Quốc có chịu khoanh tay đứng nhìn?

Theo thống kê, chỉ trong 4 tháng đầu năm nay, số thương vụ M&A thành công của các nhà đầu tư Trung Quốc – những người được xem là không có gì ngoài tiền, đã tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, đạt con số 57 thương vụ, với giá trị khoảng 10 tỷ USD. Ngoài ra, còn có 145 thương vụ khác được công bố nhưng chưa hoàn tất.

Điều gì khiến các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh tay vung tiền vào các thương vụ M&A (mua bán và sáp nhập) các doanh nghiệp nước ngoài như vậy? Rõ ràng, đây chính là làn sóng thâu tóm hậu Covid 19 – một cách ứng phó khôn ngoan, vừa để  không bị hất cẳng khỏi chuỗi cung ứng đang dịch chuyển sang hướng khu vực hóa, lại vừa duy trì được tầm ảnh hưởng.

Tham vọng lộ rõ khi nước này muốn thâu tóm gần như toàn bộ những doanh nghiệp đang suy yếu vì đại dịch COVID-19 và có thể trở thành những mục tiêu phát triển hấp dẫn. Mới đây nhất, ngân hàng nhân dân Trung Quốc PBOC đã nâng tỷ lệ cổ phần sở hữu tại HDFC – ngân hàng tư nhân lớn nhất Ấn Độ, trong khi quỹ đầu tư CNIC được Bắc Kinh hậu thuẫn cũng đang xem xét mua khoảng 10% cổ phần của Greenko Group, một trong những công ty năng lượng tái tạo lớn nhất Ấn Độ. 

3. Trung Quốc khôn ngoan, các quốc gia khác không phải kẻ khờ

Đáp trả động thái muốn “mua lại cả thế giới” của Trung Quốc,  Liên minh châu Âu ngay lập tức đã có những phản ứng quyết liệt. Cụ thể, EU đang tìm cách hoàn tất kế hoạch tham gia góp vốn cho các doanh nghiệp chủ chốt của khối, nhằm tránh nguy cơ các doanh nghiệp này bị nước ngoài thâu tóm. Sau những cảnh báo của Liên đoàn Công nghiệp châu Âu trong lĩnh vực sản xuất nhôm, gốm, thép, thủy tinh, các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong đại dịch ngày càng tỏ ra thận trọng trước âm mưu thôn tính của Trung Quốc.

Tại Ấn Độ, theo tờ The India Times, nước này đã sửa đổi quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhằm ngăn chặn các vụ thâu tóm cơ hội hoặc mua lại các công ty Ấn Độ, vốn đang suy yếu nghiêm trọng vì COVID-19. Tất cả các hoạt động đầu tư FDI từ các quốc gia láng giềng, có chung đường biên giới trên bộ sẽ phải được chính quyền New Delhi phê chuẩn.

Một nền kinh tế lớn khác tại châu Á là Nhật Bản cũng vừa công bố danh sách các công ty được coi là đối tượng hạn chế chế đầu tư từ nước ngoài. Danh sách này bao gồm 518 công ty thuộc 12 lĩnh vực công nghiệp cốt lõi như sản xuất vũ khí, máy bay, không gian vũ trụ, điện nguyên tử, an ninh mạng, điện khí, gas… Theo đó, khi các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trên 1% đối với các công ty cốt lõi này phải thông báo trước, để cơ quan quản lý kinh tế Nhật Bản xem xét. Danh sách công ty hạn chế đầu tư từ nước ngoài được dự báo sẽ tiếp tục được mở rộng.

Ngay cả Australia – đối tác thương mại chặt chẽ của Trung Quốc giờ đây cũng bắt đầu áp dụng nhiều biện pháp phòng vệ hơn, sau nhiều năm niềm nở chào đón dòng vốn lớn và ổn định từ các nhà đầu tư Trung Quốc. Cụ thể, Chính phủ Australia hiện đang yêu cầu tất cả các khoản đầu tư nước ngoài đều phải chịu sự giám sát của Ủy ban Đánh giá đầu tư nước ngoài, bất kể giá trị thỏa thuận là bao nhiêu. Thời gian đánh giá, rà soát có thể kéo dài tới 6 tháng, thay vì mức 1 tháng như trước đây. Quy định này sẽ có hiệu lực trong suốt thời gian diễn ra đại dịch COVID-19.

4. Tương lai của mạng lưới chuỗi cung ứng toàn cầu

Khi chuỗi cung ứng dịch chuyển, doanh nghiệp Trung Quốc thất bại trong việc “thâu tóm thế giới”, “công xưởng thế giới” có nguy cơ sẽ đổ vỡ, khi mà chính quyền ông Trump đang ngày càng quyết liệt trong nỗ lực rút chuỗi sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Thêm vào đó, sự phòng vệ của các nước Nhật, Ấn Độ, Australia… cũng cho thấy rõ ràng khuynh hướng giảm lệ thuộc vào thị trường 1,4 tỉ dân.

Liệu Trung Quốc có còn giữ vững vị thế của mình sau đại dịch Covid 19? Đây vẫn còn là câu hỏi chưa lời đáp. Trên thực tế, nhiều công ty Mỹ đã đầu tư lớn tại Trung Quốc, dù thấy rõ những rủi ro phát sinh từ Covid -19, thì việc triển khai những thay đổi lớn sẽ không dễ dàng như việc ra một tuyên bố. Tháng trước, khảo sát của Phòng Thương mại Mỹ tại Thượng Hải vẫn cho thấy khoảng 70% công ty không nghĩ đến việc chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc vì Covid-19.

Phần lớn họ muốn ở lại, bởi một thị trường không thể thấp hơn, còn một số khác chưa tin tưởng vào khả năng có thể độc lập hoàn toàn với mạng lưới mà công xưởng thế giới đã tạo lập trong 30 năm qua.

Hơn nữa, việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng đồng nghĩa với việc mở rộng các nhà cung ứng, buộc nhà sản xuất phải “cân não” tới các chi phí tăng thêm, cách phản ứng trước biến cố và giải pháp xây dựng chuỗi cung ứng bền vững. Việc này buộc các doanh nghiệp phải xem lại bài toán quản lý chuỗi cung ứng sao cho hiệu quả, cả ở khía cạnh chi phí, chất lượng và giao nhận, chưa kể các yếu tố khác như sức chịu đựng, phản ứng cũng như sự linh hoạt của doanh nghiệp.

Nguồn: LSC tổng hợp

Bộ tứ kim cương của Mỹ và ý tưởng về trật tự thế giới mới

0

Chiều dài lịch sử đã chứng minh cho chúng ta một điều: Sau mỗi khủng hoảng lớn có quy mô tầm thế giới, trật tự của các quốc gia sau đó cũng ít nhiều có sự dịch chuyển. Và có thể Covid-19 cũng không là một ngoại lệ.

Covid-19 đã phá vỡ trật tự cũ và có thể Việt Nam sẽ có một “thị phần” không nhỏ trong cái gọi là trật tự thế giới mới này.

Để đến với câu chuyện ngày hôm nay, chúng ta hãy cùng điểm lại một số những sự kiện đáng nói trong nửa cuối thập kỷ 2010 vừa qua.

Bộ tứ kim cương của Mỹ và ý tưởng về trật tự thế giới mới
Bộ tứ kim cương của Mỹ và ý tưởng về trật tự thế giới mới

Đầu tiên, vào tháng 01/2017, Donald Trump chính thức dọn vào Nhà trắng để bắt đầu sứ mệnh thay đổi bộ mặt nước Mỹ cùng lời hứa tranh cử của mình đưa ra vài tháng trước khi đắc cử. Trước những ngổn ngang với sự nghiệp mới của mình, Trump đã chỉ đạo văn phòng nội các của mình sắp xếp chuyến công du đến các nước châu Á. 

Và ngày 03/11 năm đó, tân tổng thống Mỹ đã thực hiện chuyến thăm đến các quốc gia Đông Nam Á. Ông Trump đã đến Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam (dự hội nghị APEC – Đà Nẵng). Và trong suốt chuyến công du của mình, một thông điệp đã liên tục được nhắc đi nhắc lại, đó chính là thông điệp “Ấn Độ – Thái Bình dương tự do và rộng mở” (FOIP). Tiền thân của ý tưởng về Bộ tứ thịnh vượng của tổng thống Trump.

Sau chuyến công du của Tân tổng thống đến châu Á, một dòng tiền lớn được các nước thành viên trong ý tưởng “Bộ tứ” do Mỹ khởi xướng chuẩn bị. Quỹ Tài trợ phát triển (IDFC) đã được thành lập với tổng số tiền lên tới 60 tỷ USD nhằm nhanh chóng thành lập, hỗ trợ xây dựng các hải cảng, sân bay, hệ thống đường bộ và đường sắt, hệ thống đường ống và đường truyền dữ liệu hiện đại cho khu vực Ấn Độ – Thái Bình dương.

Thể hiện rõ nhất cho ý đồ của mình chính là việc Mỹ đã ký kết các hiệp định thương mại song phương mới với Hàn Quốc, Nhật Bản, đồng thời phát động chiến tranh thương mại với Trung Quốc. 

Một chiến lược “kiềng ba chân”, kinh tế, quản trị và an ninh được kết hợp chặt chẽ với kế hoạch “Thái Bình dương tự do và rộng mở” của Nhật Bản, chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ, Kế hoạch Thái Bình dương – Ấn Độ dương của Úc, “Chính sách phương Nam mới” của Hàn Quốc.

Tương tự như Chính sách “Một vành đai, Một con đường” (BRI) của Trung Quốc, FOIP có thể sẽ mang lại một sân chơi mới làm đối trọng với BRI trên sân chơi quốc tế. Các nước trong khu vực sẽ có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn dồi dào, công nghệ nguồn hiện đại, tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh quốc gia.

Tóm lại, FOIP nhằm mục đích giải quyết 2 vấn đề: Lợi ích của Mỹ và kiềm tỏa Trung Quốc trong bối cảnh châu Á – Thái Bình Dương đã, đang và sẽ là địa bàn cạnh tranh chiến lược của các siêu cường.

Lý do sâu xa đằng sau “Bộ Tứ Kim Cương”

Nhằm mục đích dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc, Mỹ hiện đang lên kế hoạch thành lập “Mạng lưới thịnh vượng kinh tế” (Economic Prosperity Network) thông qua cuộc đối thoại với QUAD (bộ tứ kim cương) gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, và mời 3 quốc gia khác là New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam.

Trung quốc là công xưởng của thế giới

“Trung Quốc là công xưởng của thế giới”

Sự lệ thuộc của các quốc gia vào Trung Hoa Đại lục trong gần hai thập kỷ qua hiện rõ ràng hơn bao giờ hết, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu chịu ảnh hưởng bởi Covid-19. Trung Quốc từ 2010 đã vượt xa Mỹ trở thành quốc gia sản xuất lớn nhất thế giới và chiếm gần 28% sản lượng toàn cầu vào 2018. Hằng năm, Trung Quốc đều đặn cung cấp cho thị trường thế giới một khối lượng hàng hóa khổng lồ trị giá hơn 2.000 tỷ USD (năm 2019 là 2.465 tỷ USD, theo World Top Exports). Có thể nói, mọi người đã xem sự xuất hiện của các mặt hàng “Made in China” là điều tất yếu, nhưng ít ai có thể ngờ rằng: “Nếu Trung Quốc hắt hơi, cả Trái Đất sẽ rung chuyển” (trích lời của diễn viên điện ảnh Thành Long).

Đại dịch Covid-19 đã cho thấy vai trò then chốt của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là với Mỹ khi nguồn cung cấp dược phẩm và các vật tư y tế khác bị gián đoạn và rơi vào tình trạng thiếu hụt trong giai đoạn bùng phát virus Corona. Theo FDA, tầm 80% các nguyên liệu cơ bản được dùng trong sản xuất các loại thuốc ở Mỹ, hay còn gọi là APIs (thành phần hoạt chất dược phẩm) được nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ, nơi có nguồn nguyên liệu rẻ và không quá nhiều quy định nghiêm ngặt trong quá trình sản xuất.

Thế giới bây giờ lại ngấm đòn sau những bài học về việc phụ thuộc quá nhiều vào một nhà cung cấp, từ sự kiện khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, hay sự cắt giảm lượng đất hiếm thành phẩm xuất sang Nhật của Trung Quốc sau vụ va chạm ở vùng biển gần đảo Senkaku năm 2010. Nhiều công ty đa quốc gia đã cân nhắc về việc hoạt động chủ lực tại Trung Quốc ngay trước khi chiến tranh thương mại diễn ra. Thế nhưng, việc dịch chuyển chuỗi cung ứng ra ngoài Trung Quốc là điều không hề dễ, khi mà nhân công rẻ không còn là lý do chính; cái cốt lõi nằm ở mức độ tập trung dày đặc của các kỹ sư trình độ cao, hệ thống hậu cần toàn diện và mức thuế ưu đãi mà đất nước này đưa ra.

Ở thời điểm hiện tại, nếu ví thương chiến là một ngòi nổ thì đại dịch Covid-19 chính là ngọn lửa phát hỏa chiếc dây cháy chậm tạo sự chuyển dịch mạnh mẽ về bối cảnh địa chính trị của thế giới.

Bộ tứ Kim Cương và những lý giải của truyền thông quốc tế

QUAD ra đời vào năm 2007 theo đề xuất của thủ tướng Shinzo Abe, nhằm mục đích chính là đối trọng với sức ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực, với sự tham gia của các thành viên gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Sau hơn 10 năm im ắng, trước những gì virus SARS-Cov-2 gây ra, Mỹ “hâm nóng” lại bộ tứ kim cương với hy vọng tạo ra được cú hích, vực dậy nền kinh tế toàn cầu, và mời 3 quốc gia khác là New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam.

Theo Heritage (chuyên đăng tải các cuộc đối thoại ngoại giao của Mỹ), nội dung cuộc đối thoại giữa các quan chức ngoại giao từ các quốc gia xoay quanh về Covid-19, cũng như phương thức chống lại sự lây lan của đại dịch. Hãng tin Reuters (Anh) và Đài Truyền hình CGTV (Trung Quốc) lại chỉ ra rằng, “tái cấu trúc chuỗi cung ứng và giảm thiểu tác động lên kinh tế toàn cầu” mới chính là nội dung chính cho liên minh “Mạng lưới thịnh vượng kinh tế”. Và đây là một phương án đa phương đầy bất ngờ, như nhiều chuyên gia nhận định, sẽ giúp Mỹ đa dạng hóa nguồn cung cấp và giảm thiểu rủi ro sau khi tách khỏi Trung Quốc.

Cơ hội nào cho Việt Nam

Theo Nikkei Asian đưa tin, Apple đang rục rịch chuẩn bị sản xuất 3-4 triệu tai nghe không dây AirPods – chiếm 30% sản lượng của hãng tại Việt Nam ngay trong quý II năm nay. Báo chí những ngày gần đây liên tục đưa tin về sự góp mặt của Việt Nam trong cuộc điện đàm không chính thức giữa các thành viên của QUAD-Plus. Khi mà trung tâm sản xuất số một thế giới không còn là của Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Việt Nam là địa điểm thay thế mới mà các nhà đầu tư hướng tới.

Có nhiều ý kiến giải thích tại sao lại là Việt Nam mà không phải các nước ASEAN khác. Họ cho rằng sau khi Việt Nam đã làm được những điều khác biệt, từ thành công trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 đến duy trì được những thành tích trên phương diện kinh tế đối ngoại, giữ tương đối vững kim ngạch xuất khẩu, FDI và FII khá cao. Lý do không đơn giản nằm ở những điều như vậy, bởi cũng có rất nhiều các quốc gia khác trải thảm đỏ mời những làn sóng nhà đầu tư từ châu Âu, Mỹ… nhằm dành được vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặt khác, theo các chuyên gia chính trị, Việt Nam là quốc gia phù hợp nhất, đi đầu trong ASEAN giúp Mỹ tăng cường lợi ích tại khu vực trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang. Và khi thành đối tác với Việt Nam, Mỹ đang có những lợi ích thương mại và chính trị một cách rõ rệt. Dù gì đi nữa, vẫn không thể phủ nhận được một cơ hội rất lớn đang ở trước mặt chúng ta.

“Cơ hội thì đã rõ. Vấn đề không phải là cơ hội mà có hiện thực hóa được cơ hội hay không.” Qua cuộc trao đổi với VietnamFinance, TS Bùi Ngọc Sơn, Viện Kinh tế Chính trị và Thế giới (thuộc Viện Hàn lâm khoa học và xã hội Việt Nam), nhấn mạnh:

“Mong ước của Việt Nam là có một vị trí cao, sâu, chắc chắn trong các chuỗi cung ứng, có như vậy mới phát triển được. Chỉ khi độc lập về kinh tế thì mọi chuyện mới đổi khác, nếu không thì ta vẫn sẽ phụ thuộc nước này hoặc nước kia và cuối cùng thì chơi với ai, ta cũng phải chịu thiệt.”

Nội dung: Huy Ngân
Hình ảnh: Minh Luận

Quản trị rủi ro trong chuỗi cung ứng: Bài học đắt giá cho các doanh nghiệp

0

Với việc các nhà máy không hoạt động, giao thông đình trệ, nhu cầu của khách hàng giảm sút,… Covid-19 thực sự khiến doanh nghiệp phải xem xét lại về khả năng quản trị rủi ro trong chuỗi cung ứng của mình.

Tại sao lại cần đến quản trị rủi ro trong chuỗi cung ứng?

Rủi ro được định nghĩa là bất cứ điều gì có thể ảnh hưởng đến hoạt động của một doanh nghiệp, thường là theo cách tiêu cực. Ví dụ, một rủi ro về sự gia tăng đột ngột nhu cầu đối với một sản phẩm. Do đó, các giám đốc điều hành tại công ty chuyển sang sản xuất và chuỗi cung ứng để tăng sản lượng. Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu công ty không thể xử lý sự gia tăng nhu cầu này và mất khách hàng, tính toàn vẹn và uy tín thương hiệu là kết quả? Đây là lúc quản lý rủi ro phát huy và khả năng phục hồi tương đương với việc tiếp tục quản lý rủi ro sau khi giải quyết một rủi ro nhất định.

Những loại rủi ro nào ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng?

Deloitte đã xác định nhiều rủi ro khác nhau mà bất kì người quản lí nào cũng phải hiểu để quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả. Tuy nhiên, hầu hết các rủi ro có thể được phân thành 4 loại: rủi ro vĩ mô, rủi ro chuỗi giá trị mở rộng, rủi ro vận hành và rủi ro chức năng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quy trình quan trị chuỗi cung ứng tại doanh nghiệp
Các yếu tố ảnh hưởng đến quy trình quan trị chuỗi cung ứng tại doanh nghiệp
Trong đó
  • Rủi ro vĩ mô đề cập đến các yếu rộng lớn ảnh hưởng đến toàn bộ doanh nghiệp.
  • Rủi ro trong chuỗi giá trị mở rộng bắt nguồn xung quanh đối tác cung cấp thượng lưu (upstream) và hạ lưu (downstream).
  • Rủi ro hoạt vận hành là những rủi ro có thể xảy ra trong một quy trình nhất định
  • Rủi ro chức năng là những rủi ro tồn tại giữa các bên liên quan trong chuỗi cung ứng như phát triển công nghệ thông tin, tài chính và nguồn nhân lực.

Quản lý rủi ro một cách hiệu quả thì có thể loại bỏ mọi rủi ro không?

Không. Loại bỏ tất cả rủi ro chỉ đơn giản là không thực tế. Rủi ro tồn tại trong mọi hoạt động trong chuỗi cung ứng. Rõ ràng, một số rủi ro có khả năng xảy ra cao hơn các rủi ro khác và mỗi doanh nghiệp trong chuỗi cần có khả năng đáp ứng với việc ứng phó mọi rủi ro thông qua một quá trình hành động được lên kế hoạch. Về cơ bản, công ty cần có một kế hoạch phục hồi.

Doanh nghiệp cần làm gì sau mùa đại dịch

Theo báo cáo của McKindsey, có 6 vấn đề đòi hỏi doanh nghiệp phải có hành động và quyết định nhanh chóng trong chuỗi cung ứng, bao gồm:
  • Tạo sự minh bạch
  • Ước tính lượng tồn kho
  • Đánh giá nhu cầu thực tế của khách hàng cuối cùng
  • Tối ưu hóa năng lực sản xuất và phân phối
  • Xác định và bảo đảm năng lực Logistics
  • Quản lý tiền mặt và vốn lưu động ròng

Content: An Hiển
Design: Ngọc Như

Bài học từ một vụ tranh chấp trong lĩnh vực vận tải và giao nhận

0

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên đã đồng ý có thể thay đổi các điều khoản trong hợp đồng nhưng lại không chắc liệu có cần phải lập phụ lục cho những thay đổi này hay không.

Các doanh nghiệp có thể thực hiện các dịch vụ bổ sung cho nhau nhưng không biết đó là nghĩa vụ hợp đồng hay chỉ là một sự hỗ trợ đơn thuần. Và khi thu hồi khoản nợ, liệu những dịch vụ này có được quy định khác với các điều khoản hợp đồng xét về thể loại và nội dung của tài liệu hay không. Không nghiên cứu kỹ lưỡng Tiêu chuẩn Điều khoản Thương mại cho doanh nghiệp Logistics (được quy định rõ trong các chứng từ khi giao dịch) có thể dẫn đến những hệ quả trong không mong đợi trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Bài học từ một vụ tranh chấp trong lĩnh vực vận tải và giao nhận

Tóm tắt tranh chấp giữa hai bên

Một doanh nghiệp dịch vụ Logistics (Nguyên đơn) đã ký một Hợp đồng chuyển chở (Hợp đồng) với một công ty xuất nhập khẩu (Bị đơn) để vận chuyển thiết bị và máy móc bằng container. Hình thức vận tải là đa phương thức kết hợp đường biển và đường bộ từ một cảng châu Âu đến nhà máy của bị đơn tọa lạc tại địa phận tỉnh Quảng Ninh.

Trước và sau khi ký kết hợp đồng chuyên chở, bị đơn liên tiếp gửi email yêu cầu nguyên đơn phải báo cước suất của quãng đường vận chuyển từ cảng biển đến Nhà máy. Nguyên đơn đã thực hiện yêu cầu báo cước suất từ cảng bốc hàng đến CY của cảng Hải Phòng và bị đơn cũng đã chấp nhận những thư báo giá này mà không có phàn hồi gì thêm.

Hai bên đã ký bổ sung phụ lục hợp đồng về số lượng hàng hóa trong đợt vận chuyển đầu tiên là 3 container với cưới phí vận tải, phụ phí và phí chuyên chở từ Hải Phòng đến nhà máy, phí thông quan. Hai bên đã đàm phán vận chuyển tất cả 13 đợt như vậy; Bị đơn đã gửi yêu cầu cho nguyên đơn về việc phản hồi các thư báo giá tương ứng cho mỗi đợt vận chuyển.

Nội dung của 13 thư báo giá có ghi rõ phí vận chuyển chặng chính từ cảng bốc hàng đến cảng Hải Phòng và đã được phía bị đơn chấp nhận. Sau khi hoàn thành 13 chuyến hàng, với các yêu cầu thanh toán cho quá trình vận chuyển và chi phí dịch vụ hải quan là 2.168.382.175 VND, lãi phạt chậm trả là 197.187.653 VND đã được thông báo đến cho bên bị đơn. Song, bị đơn chỉ thanh toán 544.820.950 VND cho chuyến hàng số 1, 2 và 3, 10 chuyến còn lại vẫn chưa được thanh toán. Công ty dịch vụ Logistics đã khởi kiện doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Cơ quan trọng tài thương mại, yêu cầu bị đơn thanh toán số dư 1.623.561.225 VND cùng số tiền lãi phạt chậm thanh toán 197.187.653 VND.

Bảng phân tích của Hội đồng trọng tài và bài học quý giá

Bị đơn đã phản bác cho rằng Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng không áp dụng với tất cả 13 chuyến hàng mà chỉ áp dụng cho những chuyến hàng được nêu trong Phụ lục hợp đồng, tức là, 3 container trong chuyến hàng đầu tiên. Với những chuyến hàng còn lại, bị đơn cho rằng hai bên cần phải ký kết một hợp đồng mới, dù cho bị đơn đã chấp nhận 13 thư báo giá. Thực tế, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn 544.820.950 VND là khoản chi phí của 3 chuyến hàng đầu tiên.

Và với hành động này, bị đơn đã ngầm hiểu và chấp nhận là Hợp đồng cùng phụ lục hợp đồng được áp dụng cho tất cả những chuyến hàng được thực hiện sau chuyến đầu tiên. Tham chiếu theo Khoản 2, Điều 408 của Bộ luật Dân sự năm 2005, 13 thư báo giá (cung cấp cước suất vận tải đường biển) mà bị đơn chấp nhận cũng được xem là một phần phụ lục của Hợp đồng.

Bị đơn cho biết phía cung cấp dịch vụ vận tải phải thực hiện chuyến hàng bằng đường biển và đường bộ đến nhà máy theo quy định của Hợp đồng. Vì thế, họ không thanh toán cho phần vận chuyển bằng đường bộ. Trên thực tế, lý do được đưa ra là bị đơn đã ký kết một hợp đồng với một doanh nghiệp khác để vận tải số hàng này từ CY đến Nhà máy thông qua vận tải đường bộ mặc dù vẫn yêu cầu phía nguyên đơn gửi thư báo giá.

Vì vậy, theo Khoản 2, Điều 408 của Bộ luật Dân sự năm 2005, (phí) dịch vụ chuyên chở đường bộ được hai bên thống nhất thay đổi so với Hợp đồng cũng như phụ lục. Bị đơn cũng không nhận được bất cứ báo cáo nào về tổn thất, hư hỏng hoặc chậm trễ giao hàng trong tất cả 13 chuyến hàng sau khi tàu cập cảng Hải Phòng. Vì vậy, theo Điều 96 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005, bị đơn đã nhận 13 đơn hàng đầu đủ và đúng quy cách, không có căn cứ để từ chối thanh toán cho những phí chuyên chở hay phí dịch vụ.

Bị đơn sau đó có nói việc ký kết chấp nhận và đối chiếu xác nhận thu hồi nợ tồn động không được thực hiện mỗi tháng, vì vậy không có khoản phạt cho thanh toán trễ. Theo điều 4 của Hợp đồng, nguyên đơn đã gửi chứng từ thanh toán và phạt thanh toán chậm hàng tháng nhưng phía Bị đơn chỉ có giấy báo nợ cho mỗi chuyến hàng, không có giấy báo phạt thanh toán trễ.

Phía nguyên đơn chỉ có 3 bức thư chính thức yêu cầu thanh toán cước phí cho 13 chuyến hàng với tổng số dư báo là 2.168.382.175 VND. Tuy nhiên, bị đơn chỉ mới thanh toán 544.820.950, nghĩa là số dư tồn đọng chỉ là 1.623.561.225 VND. Vì thế, hội đồng Trọng tài phán quyết là nguyên đơn không có đủ căn cứ để yêu cầu thanh toán phạt nộp chậm trả 197.187.653 VND theo Khoản 2, Điều 6 của Hợp đồng.

Bị đơn cho biết nguyên đơn đã được ủy thác làm môi giới hải quan và đăng ký danh sách hàng hóa nhập khẩu nhưng không có bằng chứng cho sự ủy quyền này. Trong số 13 thư báo giá, nguyên đơn chỉ đề cập đến chi phí và lệ phí cho dịch vụ thông quan chứ không đề cập đến quyền hạn làm môi giới hải quan. Theo Khoản 7, Điều 4 của Luật Hải quan năm 2005 và Khoản 1, Điều 2 của Thông tư Số 80/2011/TT-BTC ban hành ngày 09 tháng 06 năm 2011, trong trường hợp nguyên đơn được ủy quyền làm môi giới hải quan, người làm tờ khai hải quan phải có tên của nguyên đơn và do nguyên đơn thực hiện.

Thực tế cho thấy những người thực hiện tờ khai hải quan được đề cập trong 13 lần thông quan lại là bị đơn, và bị đơn vẫn phát hành các thư giới thiệu xác nhận nhân viên của nguyên đơn chính là người của bị đơn gửi tới để thông quan hàng hóa.

Căn cứ trên tình tiết này, Hội đồng Trọng tài nhận thấy nguyên đơn không phải là môi giới hải quan mà chỉ là nhân viên thực hiện thông quan cho phía bị đơn. Ngoài ra, theo Điều I.3 của “Quy chuẩn điều kiện thương mại” do Hiệp hội doanh nghiệp Logistics Việt Nam ban hành mà cả hai bên đã thống nhất (Trong hợp đồng và các thư báo giá), khi thực hiện thủ tục hải quan, nguyên đơn được xem là người thực hiện quy trình thông quan trên danh nghĩa của bị đơn và vì thế không có tư cách của một môi giới hải quan. Vì vậy, việc chậm trễ trong thông quan dẫn tới phí lưu kho bãi là hoàn toàn thuộc về lỗi của bị đơn.

Theo Trọng tài viên Ngô Khắc Lễ
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam

Ứng dụng điện toán đám mây trong chuỗi cung ứng

0

Trong thời kỳ dịch bệnh COVID-19 đang bùng phát, điện toán đám mây (ĐTĐM) là một nền tảng quan trọng trong việc hỗ trợ làm việc từ xa, giáo dục và tổ chức sự kiện trực tuyến, hay kinh doanh online.

Sơ lược về điện toán đám mây

Nhen nhóm từ những năm cuối thế kỉ XX, ĐTĐM hiện là giải pháp hữu dụng cho nhiều doanh nghiệp bởi tính nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và quy mô linh hoạt. Lợi thế nổi bật nằm ở việc giảm thiểu vốn đầu tư ban đầu khi không đòi hỏi lắp đặt và duy trì trung tâm dữ liệu tại chỗ, các chi phí đó có thể được dùng cho các dự án khác cũng như giúp doanh nghiệp tập trung hơn trong hoạt động kinh doanh cốt lõi. Thay vào đó, họ có thể tiếp cận đến các dịch vụ công nghệ như năng lượng điện toán, lưu trữ và cơ sở dữ liệu khi cần thiết từ các nhà dịch vụ đám mây.

Nhiều tập đoàn lớn cung cấp dịch vụ Clouding như Amazon Web Services (AWS), Microsoft Azure, Google, IBM hay Alibaba đem đến 3 mô hình dịch vụ cơ bản là IaaS (Infrastructure as a Service), PaaS (Platform as a Service) và SaaS (Software as a Service). Gần đây, tập đoàn Alibaba thông báo sẽ đầu tư 28 tỷ USD để phát triển hệ thống bán dẫn và hệ điều hành cũng như cơ sở hạ tầng trung tâm dữ liệu ĐTĐM, khi nhu cầu về phần mềm doanh nghiệp ở Trung Quốc bùng nổ.

Amazon Go Và Oracle WMS Cloud

Chúng ta có thể dễ thấy ứng dụng của ĐTĐM xuất hiện khá nhiều trong các công đoạn của chuỗi cung ứng. Một ví dụ điển hình, vào năm 2018, sự xuất hiện của Amazon Go đã thu hút được rất nhiều ánh mắt từ dư luận. Đây là chuỗi cửa hàng tiện lợi mà bạn sẽ không thấy bóng dáng của thu ngân hay là cảnh xếp hàng chờ thanh toán như các cửa hàng truyền thống khác. 

Amazon Go đã thực sự đưa trải nghiệm khách hàng lên tầm cao mới, khi họ chỉ cần bước vào cửa hàng, lấy món đồ cần mua, và sau đó bước thẳng ra cửa. Để biết khách hàng đã chọn những thứ gì, Amazon sử dụng các cảm biến, camera kết hợp với các thuật toán nhận diện hình ảnh; những thiết bị này được lắp đặt trên kệ và trần nhà. Tuy nhiên, vẫn sẽ có vài nhân viên làm việc tại cửa hàng, và người mua hàng sẽ được yêu cầu scan mã vạch trên app của Amazon đã đăng ký từ trước tại cửa ra vào.

Đối với Amazon, bằng cách phân tích đường đi của bạn trong cửa hàng và những món đã mua, cùng với dữ liệu về hành vi mua sắm trên trang thương mại điện tử của họ, Amazon nắm trong tay rất nhiều thông tin về khách hàng và có thể sử dụng nó cho mục đích quảng cáo hoặc hiển thị kết quả tìm kiếm chính xác hơn.

Một cái tên khác không thể không nhắc đến là Oracle WMS Cloud của tập đoàn Oracle – chuyên phát triển và cung cấp các phần mềm cho doanh nghiệp như là giải pháp trong việc quản lý dữ liệu, được biết đến với sản phẩm Netsuite nổi tiếng trên thế giới. Với cải tiến trong lĩnh vực quản lý kho hàng trên nền tảng ĐTĐM bao gồm:

  • Hệ thống quản lý sân bãi (yard management systems – YMS): đóng vai trò là người định vị cho kho bãi; cung cấp thông tin về các xe đầu kéo và container, cho phép công ty điều phối sân bãi, ưu tiên thực hiện những chuyến quan trọng và đẩy nhanh tốc độ hoàn thành đơn hàng
  • Tích hợp với Quản lý Hàng tồn kho trên nền tảng Oracle Cloud: cho phép khách hàng của dịch vụ Oracle ERP và SCM Cloud có thể thực hiện các hoạt động tìm kiếm mua hàng và thực hiện các giao dịch với tốc độ nhanh hơn
  • Khả năng mở rộng và tăng cường giải pháp: cho phép khách hàng/đối tác xây dựng các tiện ích mở rộng tùy chỉnh trên các tính năng quản lý kho hàng dựa trên nền tảng ĐTĐM bằng cách sử dụng các giao diện lập trình ứng dụng web REST. Các tính năng tùy chỉnh này giúp cá nhân hóa các mốc thời gian nhằm đáp ứng các yêu cầu kinh doanh cụ thể, đồng thời tiết kiệm chi phí
  • Nâng cao và đơn giản hóa trải nghiệm người dùng nhờ nền tảng trình duyệt mới
  • Cho phép xử lý mã vạch 1D và 2D đa nguyên tố

Dưới đây là video được đăng vào 2019 giải thích rõ hơn những gì mà Oracle WMS Cloud làm được.

Content: Huy Ngân
Design: Ngọc Như

Tàu container siêu trọng tải cập cảng quốc tế Hải Phòng

0

Tàu container với trọng tải 100 nghìn tấn đã cập cảng quốc tế Hải Phòng (HICT) để làm hàng. Sự kiện này đã tạo ra tín hiệu tích cực khi dịch Covid-19 đã có những dấu hiệu hạ nhiệt tại Việt Nam.

Tàu container siêu trọng tải cập cảng quốc tế Hải Phòng

Trong một cuộc trao đổi với phóng viên chiều ngày 27/04, lãnh đạo Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ (Cục Hải quan Hải Phòng) cho hay: Chi cục vừa phối hợp đóng thàng công tàu mẹ CSCL BOHAI SEA của hãng tàu COSCO khai thác trên tuyến dịch vụ mới ACCI, kết nối trực tiếp Hải Phòng với bang California, Hoa Kỳ.

“Tàu cập cảng 8 giờ 30 phút sáng nay, để làm thủ tục xuất nhập khẩu gần 1.000 container, đơn vị đã phối hợp thông quan nhanh”.

Theo Công ty TNHH cảng container quốc tế Tân Cảng Hải Phòng, tàu mẹ CSCL BOHAI SEA có trọng tải 121,824 DWT (tương đương hơn 120 nghìn tấn) với sức chở 10,036 TEU. Tàu có chiều dài 335 m là một trong 12 tàu khai thác trên tuyến dịch vụ hàng tuần xuyên Thái Bình Dương.

Nhờ có tuyến dịch vụ mới, hàng hóa ở miền Bắc quốc gia có thể được vận chuyển trực tiếp đến bờ Tây Hoa Kỳ mà không cần trung chuyển tại cảng nước ngoài. Từ đó, chi phí Logistics giảm đáng kể cho doanh nghiệp, giúp các đơn vị xuất nhập khẩu có thể chủ động hơn trong công tác vận chuyển giao hàng. Ngoài ra, các rủi ro tại đầu mối kết nối trung chuyển sẽ được loại bỏ.

Công ty TNHH cảng container quốc tế Tân Cảng Hải Phòng là liên doanh giữa TCT Tân Cảng Sài Gòn với hãng tàu MOL (Nhật Bản), hãng tàu Wan Hai (Đài Loan) và tập đoàn Itochu (Nhật Bản), bắt đầu đi vào khai thác từ ngày 13/5/2018. Đây là cảng nước sâu đầu tiên của khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc với 2 bến cảng container dài 750 m, luồng tàu đạt độ sâu 13,4m, vũng quay tàu rộng 660m.

Các thiết bị của cảng được đầu tư mới đồng bộ bao gồm 6 cẩu bờ STS lớn nhất Việt Nam, 24 cẩu bãi ERTG, 2 cẩu xoay cố định tại bến sà lan, cùng hệ thống quản lý, khai thác cảng TOPS-Expert và hệ thống cảng điện tử ePORT, eDO hiện đại. Cảng có thể tiếp nhận tàu container sức chở lên đến 12.000 TEU, trọng tải 132.000 DWT, sản lượng hàng hóa thông qua đạt 1,1 triệu TEU/năm.

Theo Chi cục Hải quan

Ra mắt sàn thương mại điện tử bình ổn giá mùa COVID-19

0

Nhằm giúp ổn định tâm lý người tiêu dùng, tránh hoảng loạn trong giai đoạn dịch COVID-19, từ ngày 15/4, VNSHOP hợp tác cùng CIB Group triển khai sàn thương mại điện tử (TMĐT) bình ổn giá chống hoảng loạn phòng chống COVID-19 đầu tiên tại Việt Nam.

Ra mắt sàn thương mại điện tử bình ổn giá mùa COVID-19
Ra mắt sàn thương mại điện tử bình ổn giá mùa COVID-19

Tất cả các sản phẩm được bán trên sàn TMĐT sẽ được giữ mức giá bình ổn trong suốt mùa dịch và được khuyến cáo mua với số lượng vừa phải, phù hợp với nhu cầu, tránh tích trữ không cần thiết gây lãng phí xã hội. Người tiêu dùng được đảm bảo luôn luôn có thể mua được các mặt hàng nhu yếu phẩm, sản phẩm bảo vệ sức khỏe, hàng tiêu dùng, với mức giá bình ổn và nhận được hàng giao trong vòng 3h.

Sàn TMĐT chống hoảng loạn – giải pháp cho Việt Nam

Sàn TMĐT bình ổn giá chống hoảng loạn mùa COVID-19 là dự án được triển khai từ ý tưởng đột phá của doanh nhân Mã Thanh Danh – Tổng Giám đốc Công ty Tư vấn và Đầu tư Quốc tế CIB. Theo gợi ý của ông Mã Thanh Danh, sàn TMĐT bình ổn giá sẽ được vận hành trên cơ sở các tổ chức uy tín sẽ đứng ra phân phối hàng hóa theo đúng cung – cầu thực tế. Theo đó, mỗi người mua sẽ được cấp tài khoản ID từ số CMND hoặc hộ chiếu và sẽ được mua hàng trong giới hạn nhu cầu trong tuần, trong tháng, có thể đặt mua hàng cho tuần, cho tháng tiếp theo.

Trường hợp khách hàng có nhu cầu tăng đột biến (ví dụ bị ốm,…), hoặc đối với một số hàng hóa đặc biệt hơn ví dụ như: khẩu trang, nước rửa tay, thuốc,… thì sẽ được xác thực nhu cầu và được cho phép mua nhiều hơn. Qua đợt dịch bệnh, nếu nhu cầu sử dụng hàng hóa không nhiều như đã đặt hàng, người mua có thể được trả lại tiền, hoàn trả lại đơn hàng đã đặt trước.

Nếu chúng ta mua dự trữ thì nhà máy sản xuất không thể nào đáp ứng đủ nhu cầu. Chính sàn hàng hóa này sẽ giúp tránh được tâm lý hoảng sợ, Chính phủ điều tiết kinh tế – xã hội, nhà sản xuất hoạt động bình ổn và sau khi hết dịch, chúng ta không tồn dư hàng quá nhiều. Điều này sẽ giúp điều tiết cung cầu, tránh đầu cơ tích trữ thái quá gây tổn thất xã hội, đặc biệt là tổn thất sinh mạng khi có hiện tượng thiếu hụt các sản phẩm bảo vệ sức khỏe cho y bác sĩ và người bị bệnh như: khẩu trang y tế, nước rửa tay, máy đo thân nhiệt…

Trước diễn biến khó lường của dịch COVID-19 và nhu cầu cao về sản phẩm bình ổn giá, nhóm triển khai dự án do CIB và VNSHOP khởi xướng đã quyết định khởi động sàn TMĐT ngay trong tháng 4/2020, phiên bản đầu tiên để phục vụ các thành phố lớn Hà Nội và TP. HCM, với bước đầu là sự cam kết của đơn vị thực hiện sẽ luôn luôn đảm bảo có đủ số lượng hàng hoá và giữ giá bán sản phẩm ở mức thấp hơn thị trường nói chung.

Được biết, VNSHOP là trang TMĐT có thế mạnh cao về công nghệ, đặc biệt VNSHOP cam kết chỉ bán hàng chính hãng – điều này sẽ giúp tạo sự an tâm rất lớn cho người tiêu dùng. Cùng với thế mạnh của CIB – Tập đoàn tư vấn triển khai thực thi chiến lược hàng đầu, luôn tiên phong với các giải pháp sáng tạo đổi mới theo hướng toàn cầu hoá, sàn TMĐT bình ổn giá chống hoảng loạn sẽ dần trở thành một giải pháp hữu ích, thiết thực với xã hội trong giai đoạn dịch COVID-19 này.

Dự kiến, sàn TMĐT bình ổn giá do VNSHOP và CIB triển khai sẽ tiếp tục mở rộng, liên kết với nhiều tổ chức, cơ quan có uy tín và các đơn vị cung cấp để cùng chung tay xây dựng hệ thống rộng rãi, mạnh mẽ hơn, phục vụ được nhu cầu của số đông dân chúng trong giai đoạn khó khăn này.

Theo VnEconomy

Nhìn lại 2019 qua bức tranh GDP và những chỉ số kinh tế

0

Tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2019 tăng 7,02%, vượt chỉ tiêu do Quốc hội đề ra 0,5%.

Tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2019 tăng 7,02%, vượt chỉ tiêu do Quốc hội đề ra 0,5%.
Tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2019 tăng 7,02%, vượt chỉ tiêu do Quốc hội đề ra 0,5%.

Báo cáo cuối năm của Tổng cục Thống kê Việt Nam, trong mức tăng chung 7,02% của nền kinh tế Việt Nam, khu vực nông, lập nghiệp và thủy sản tăng 2,01% và đóng góp 4,6% vào mức tăng trưởng chung của các ngành kinh tế.

Trong khi đó thì khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,90%, đóng góp 50,4%; khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp 45%. 

“Động lực chính của tăng trưởng kinh tế năm nay tiếp tục là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng 11,29% và các ngành dịch vụ thị trường như ngành vận tải, kho bãi tăng 9,12%; bán buôn và bán lẻ tăng 8,82%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,62%”, Tổng cục Thống kê cho biết.

Về cơ cấu kinh tế năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%.

Trên góc độ sử dụng GDP năm 2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,23% so với năm 2018; tích lũy tài sản tăng 7,91%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,35%.

Về chất lượng tăng trưởng kinh tế, năm 2019 đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 

2016-2019 đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011-2015. 

Năng suất lao động tính theo giá hiện hành năm 2019 ước tính đạt 110,4 triệu đồng trên một lao động (tương đương với 4.791 USD, tăng 272 USD so với năm 2018).

Còn nếu tham chiếu theo giá so sánh, còn số này tăng 6,2% nhờ vào số lực lượng lao động được bổ sung. Ước tính, cả năm 2019, Việt Nam có thêm 1,65 triệu việc làm mới, giúp tỷ lệ thất nghiệp giữ ở mức 3,12% ở khu vực thành thị.

Hiệu quả đầu tư được cải thiện với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống 6,11 năm 2017; 5,97 năm 2018, còn năm 2019 ước tính đạt 6,07. 

Bình quân giai đoạn 2016-2019 hệ số ICOR đạt 6,14, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015.

Bên cạnh đó, chỉ giá tiêu dùng trong năm 2019 cũng được đánh giá là giữ ở mức thấp, tăng dưới 3% so với năm 2018.

Tổng cục Thống kê đánh giá, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm lại, căng thẳng thương mại giữa Mỹ – Trung và vấn đề địa chính trị càng làm gia tăng đáng kể tính bất ổn của hệ thống thương mại toàn cầu, gây ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin kinh doanh, quyết định đầu tư và thương mại toàn cầu. 

Sự biến động khó lường trên thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế, giá dầu diễn biến phức tạp tác động đến tăng trưởng tín dụng, tâm lý và kỳ vọng thị trường, kết quả tăng trưởng 7,02% khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.

Theo VNeconomy