
Sự bùng nổ thanh toán kỹ thuật số

TPHCM: Tàu chở 285 container chìm trên sông Lòng Tàu, 17 thành viên may mắn thoát chết

Theo thông tin ban đầu, lúc 21 giờ 15 ngày 18.19, tàu chở hàng Viet Sun Integrity (Quốc tịch Việt Nam, số hiệu XVPI19, chiều dài 132,60m, trọng tải 8,015 tấn của công ty cổ phần Nhật Việt) chở 285 container xuất phát từ cảng Vict (TP.HCM) đi Hải Phòng.
Công ty Kuehne + Nagel kỷ niệm 25 năm ngày thành lập và phát triển
Tối ngày 18/09/2019, công ty Kuehne + Nagel Việt Nam đã tổ chức một sự kiện đình đám kỷ niệm 25 năm thành lập.
- Hoạt động CSR tập đoàn Kuehne Nagel: Từ ý tưởng cho đến thực tiễn
- Kuehne + Nagel ra mắt nền tảng trí tuệ nhân tạo etrucKNow.com

Theo thông cáo báo chí được gửi về cho LSC, sự kiện này hân hạnh đón nhận sự hiện diện của ông Detlef Trefgzer – Đương nhiệm Tổng giám đốc Tập đoàn Kuehne + Nagel AG, ông Jens Drewes – Tổng giám đốc vùng Nam Á Thái Bình Dương cùng toàn thể những khách hàng đã lựa chọn đồng hành cùng với công ty trong hành trình 25 năm vừa qua.

Việt Nam được đánh giá là “con hổ châu Á” theo tờ tạp chí kinh tế tiếng anh “The Economist” bởi sự phát triển vượt bậc trong thập niên qua. Cùng với quá trình phát triển nhanh chóng của đất nước, Kuehne + Nagel Việt Nam cùng từng bước khẳng định vị thế của mình từ một văn phòng đại diện với vài nhân viên vào những ngày đầu tiên thành lập. Sau 25 năm phát triển, hiện tại, công ty hiện đang sở hữu hơn 600 nhân viên trên 6 địa điểm bao gồm trụ sở chính và các chi nhánh, kho bãi và văn phòng tại các sân bay.
Ông Detlef Trefgzer – Tổng giám đốc Tập đoàn Kuehne + Nagel AG phát biểu:
“Yếu tố chính tạo nên sự thành công của Kuehne + Nagel Việt Nam là quý khách hàng. Nếu không có sự tin tưởng liên tục của quý khách hàng trong suốt 25 năm qua, chúng tôi sẽ không thể có ngày hôm nay – một trong những công ty logistics hàng đầu tại Việt Nam.”
Nhân dịp sự kiện kỷ niệm 25 năm thành lập, Giám đốc điều hành Kuehne + Nagel Việt Nam, Ông Jesper Krusell đại diện cho toàn thể công ty gửi lời tri ân đến những khách hàng vì đã tin tưởng và đồng hành của công ty trong suốt chặng đường 25 năm qua.
Bản tin LSC: Chúng mình làm gì trong năm nhất?
[BẢN TIN LSC] CHÚNG MÌNH LÀM GÌ TRONG 1 NĂM?

Đâu là lời giải cho bài toán nhân lực ngành Logistics Việt Nam?
Với hơn 30.000 doanh nghiệp logistics đang hoạt động, đến năm 2030, nhu cầu nhân lực của ngành logistics Việt Nam lên đến 2,2 triệu lao động. Số nhân sự hiện tại chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu nhân lực toàn ngành, biến vấn đề này trở thành một trong những khó khăn hàng đầu của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
- Case Study: Bài toán vận tải công ty Logistics / Reverse Logistics là gì? Những khái niệm cơ bản về Hậu cần ngược

Ngành logistics hiện đóng góp khoản 5% vào GDP quốc gia, là ngành được xem đang phát triển “nóng”, với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 10%. “Chính phủ đưa ra mục tiêu đến giai đoạn 2020-2030 ngành logistics sẽ tăng tỷ trọng đóng góp vào GDP lên 10%, xấp xỉ ngành du lịch”, ông Lê Duy Hiệp – chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho biết tại diễn đàn Phát triển nguồn nhân lực cho ngành logistics diễn ra tại TP.HCM hôm nay, 16.5.

Tiềm năng phát triển là điều không thể phủ nhận nhưng vấn đề nhân lực lại là câu chuyện khó của ngành logistics Việt Nam. Các chuyên gia đánh giá, hiện các chương trình đào tạo về logistics tại các trường đại học, cao đẳng và cao đẳng nghề vẫn còn nặng tính lý thuyết, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu làm nghề thực tiễn. Đặc biệt, thiếu cập nhật các tiêu chuẩn đào tạo quốc tế, chưa kể đến xu hướng công nghệ đang định hình ngành logistics với một diện mạo mới hoàn toàn.

Ông Đào Trọng Khoa – phó chủ tịch VLA nhận định, việc thực tập của học viên tại doanh nghiệp logistics phải có thời gian đủ dài, không nên chỉ gói gọn trong khoảng ba tháng vì không đủ để tiếp cận thực tế. Theo đó, các trường, cơ sở đào tạo có thể học hỏi các chương trình đào tạo kép giống như ngành logistics ở Đức đang làm và rất thành công.
Cụ thể, từ năm học thứ ba, sinh viên sẽ được sắp xếp mỗi tuần ba buổi làm việc tại doanh nghiệp. Quá trình cọ xát thực tế này kéo dài liên tục trong hai hoặc thậm chí ba năm.
“Tại Việt Nam, cách làm này chỉ mới ở dạng thử nghiệm. Phòng Thương mại Đức đã phối hợp với trường Đại học Giao thông vận tải đưa vào thử nghiệm chương trình này ba năm nay. Ban đầu, đa phần chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài tham gia, từ năm ngoái mới bắt đầu có sự góp mặt của vài doanh nghiệp Việt Nam”, ông Khoa chia sẻ.
Đa dạng hóa loại hình và tổ chức đào tạo với sự tham gia của hệ thống trường đại học công lập và tư thục, trường cao đẳng, cao đẳng nghề, học viện, việc đào tạo tại doanh nghiệp… là các giải pháp được đề xuất để việc đào tạo logistics được phổ biến rộng rãi hơn.
“Chúng ta nên đề cao giáo dục nghề nghiệp do các trường nghề thực hiện trong thời gian ngắn, khoảng 6 tháng đến một năm, để học viên khi ra trường có thể làm việc ngay tại các trung tâm logistics hoặc các công ty logistics. Khi hướng nghiệp, không nên chỉ chú trọng đào tạo đại học, vì xã hội đang có nhu cầu lớn đối với đào tạo nghề”, ông Trần Thanh Hải – phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) nhận định.
Ông Trần Thanh Hải – phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) cho rằng, để đa dạng hóa việc đào tạo nhân lực ngành logistics, bên cạnh các chương trình học thông thường, nên bổ sung thêm nhiều khoá học trung, ngắn hạn và các chương trình đào tạo tại doanh nghiệp. Ảnh: Bích Trâm.
Để việc đào tạo nhân lực logistics được thực hiện trên phạm vi rộng hơn và dễ tiếp cận hơn, VLA đang đẩy mạnh các hình thức đào tạo trên nền tảng e-learning, các khoá học trực tuyến mở (MOOC), ông Đào Trọng Khoa chia sẻ bên lề Diễn đàn Phát triển nguồn nhân lực cho ngành logistics và xu hướng tại Việt Nam.
“Các cơ quan quản lý nhà nước cần phải đóng vai trò “nhạc trưởng” trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung, về đầu tư nền tảng và kinh phí cho hoạt động này. Còn các hiệp hội như chúng tôi có thể hỗ trợ về mặt nội dung đào tạo. Chỉ khi đó, việc kết nối các trường, cơ sở đào tạo mới nhanh chóng và hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực và nâng cao sức cạnh tranh cho ngành logistics Việt Nam”, ông Khoa nhận định.
Theo Forbes Việt Nam
Giao dịch ngân hàng trên Blockchain đầu tiên tại Việt Nam, thanh toán L/C giảm từ 10 ngày xuống còn 24 giờ
Nhựa Duy Tân vừa thực hiện giao dịch Tín dụng thư (L/C) sử dụng công nghệ Blockchain đầu tiên tại Việt Nam, để mua một đơn hàng nhựa nguyên liệu từ INEOS Styrolution phía Hàn Quốc.

Trong giao dịch thử nghiệm này, toàn bộ thời gian để trao đổi chứng từ được tiến hành trong vòng 24 giờ, thay vì 5 – 10 ngày như phương thức truyền thống.
HSBC vừa thực hiện thành công giao dịch Tín dụng thư (Letter of Credit – L/C) trên nền tảng blockchain giữa CTCP phần Sản xuất Nhựa Duy Tân của Việt Nam, và công ty INEOS Styrolution Korea của Hàn Quốc – hai doanh nghiệp lớn trong ngành sản xuất nhựa.
Đây là giao dịch L/C ứng dụng công nghệ Blockchain thử nghiệm đầu tiên mà HSBC thực hiện tại Việt Nam và Hàn Quốc, và là giao dịch thứ 7 ngân hàng này tiến hành trên toàn cầu.
Giao dịch được tiến hành là một đơn hàng lớn cung cấp nhựa nguyên liệu của INEOS Styrolution – bên bán tại Hàn Quốc, cho Duy Tân – bên mua tại Việt Nam. Đây là một giao dịch được tiến hành từ đầu tới cuối trên một ứng dụng chia sẻ duy nhất là Voltron, thay vì trên nhiều hệ thống khác nhau. HSBC Việt Nam đóng vai trò là ngân hàng phát hành và HSBC Hàn Quốc đóng vai trò ngân hàng thông báo/chỉ định.
Trước đây, bên mua và bên bán sử dụng L/C ghi chép trên giấy để thực hiện các giao dịch. Các giấy tờ được gửi đến mỗi bên trong giao dịch bằng đường bưu điện, người đưa thư hay fax. Các chứng từ này thể hiện thông tin về hàng hóa cung cấp và số tiền cần phải trả. Một L/C có ý nghĩa như một lời cam kết rằng ngân hàng của bên mua sẽ thanh toán cho lô hàng một khi họ nhận được, trong trường hợp bên mua không thể chi trả.
Việc trao đổi chứng từ trong những giao dịch L/C truyền thống thường mất từ 5-10 ngày.
Trong giao dịch Blockchain thử nghiệm này, toàn bộ thời gian để trao đổi chứng từ được tiến hành trong vòng 24 giờ.

Lý do chính khiến thời gian xử lý kéo dài trong các giao dịch L/C truyền thống là nhu cầu trao đổi chứng từ thực, bao gồm cả việc thay đổi quyền sở hữu hàng hóa và giao tiếp riêng lẻ giữa các bên tham gia, các công ty vận tải, ngân hàng…. Những bước này có thể được chuyển đổi hoàn toàn thông qua công nghệ Blockchain.
Công nghệ Blockchain giảm thời gian giao dịch L/C bằng cách cho phép chuyển giao điện tử các chứng từ sở hữu hàng hóa và kết nối các bên trong một mạng lưới chuỗi khối duy nhất, cho phép cập nhật thông tin tức thời và loại bỏ thời gian xử lý kéo dài do quá trình trao đổi qua lại giữa các bên trong giao dịch L/C.
Ông Phạm Hồng Hải, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, cho biết: “Giao dịch đột phá này đã minh chứng cho cam kết mạnh mẽ và khả năng của chúng tôi trong việc hỗ trợ thương mại xuyên quốc gia thông qua những nền tảng công nghệ tiên tiến nhất.”
“Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi từ sự dịch chuyển nhanh chóng của chuỗi cung ứng. Thời gian xử lý chứng từ nhanh hơn sẽ mở cánh cửa cho phép các doanh nghiệp tận dụng Việt Nam như một trung tâm thương mại tại châu Á.”
Voltron là nền tảng Blockchain được phát triển bởi 8 ngân hàng gồm Bangkok Bank, BNP Paribas, CTBC Holding, HSBC, ING, Natwest, SEB và Standard Chartered, nhằm mục tiêu cung cấp một kênh duy nhất được đơn giản hóa nhằm hỗ trợ quá trình số hóa tài trợ thương mại, từ lúc phát hành L/C cho tới xuất trình/trao đổi chứng từ.
Giao dịch L/C đầu tiên trên thế giới ứng dụng nền tảng blockchain Voltron được thực hiện vào tháng 5/2018, để thanh toán cho một chuyến hàng chở đậu nành vận chuyển từ Argentina đến Malaysia, thông qua Cargill.
Theo Coin68
Kuehne + Nagel ra mắt nền tảng trí tuệ nhân tạo etrucKNow.com

Hãng vận tải Kuehne + Nagel vừa cho ra mắt nền tảng cước trí tuệ nhân tạo etrucKNow.com cho các chuyến hàng vận tải đường bộ trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, theo một thông cáo báo chí được công ty chia sẻ với LSC hôm ngày 11/07.
Vào ngày 09/07 vừa qua, công ty Kuehne + Nagel tiếp tục mở rộng dịch vụ trực tuyến thông qua việc ra mắt etrucKNow.com – một nền tảng kĩ thuật số kết hợp trí tuệ nhân tạo. Đây là cầu nối giữa cung và cầu của ngành Logistics đường bộ thông qua thị trường kỹ thuật số. etrucKNow.com được cho là một giải pháp nhanh hơn trong việc đặt xe tải, đồng thời giúp các nhà vận chuyển có thể dễ dàng tiếp cận tới các cơ hội kinh doanh.
Ra mắt lần đầu tiên tại Thái Lan, quốc gia có ngành công nghiệp vận tải đường bộ được dự đoán có thị phần tăng trưởng lên hơn 31 tỉ USD vào năm 2023. Nền tảng công nghệ etrucKNow cuối cùng sẽ ra mắt trong năm 2019 và 2020 tại Ấn Độ, Việt Nam, Singapore, Malaysia, New Zealand và Úc.
Chủ hàng sẽ được tiếp cận với quy trình lấy báo giá và so sánh một cách đơn giản hơn thông qua etrucKNow.com. Một khi thông tin chi tiết chuyến hàng được cung cấp, công nghệ trí tuệ nhân tạo sẽ tự cải thiện và tự động hóa quá trình so sánh báo giá bằng cách xác nhận đa điểm dữ liệu và trình bày cho khách hàng báo giá tốt nhất. Khách hàng sẽ hưởng phần tiết kiệm bổ sung thông qua các mã khuyến mãi được cung cấp trong suốt thời gian ra mắt sản phẩm.
Giám sát theo thời gian thực là đặc tính chủ chốt khác của etrucKNow.com, đây là điều mà khách hàng và các nhà vận chuyển quan tâm. Chủ hàng và nhà vận chuyển sẽ luôn biết được địa điểm của lô hàng hoặc tài xế thông qua khả năng theo dõi giám sát theo thời gian thực của nền tảng.
Hơn nữa, etrucKNow.com cung cấp cho các nhà vận chuyển đã được phê duyệt cơ hội để biến không gian trống hoặc các chuyến hàng vận chuyển thành doanh thu tiềm năng thông qua nền tảng thị trường mà cung cấp cho họ truy cập vào một mạng lưới yêu cầu dịch vụ vận tải đường bộ từ các chủ hàng. Nhà cung cấp xe tải quan tâm có thể đăng ký một tài khoản trên etrucKNow.com và sẽ tuân theo quy trình xem xét và tham gia vào hệ thống.
Ông Chellan Ganesan, Phó Giám đốc bộ phận vận tải đường bộ của Kuehne + Nagel Nam Á phát biểu: “etrucKNow.com là ứng dụng web dễ dàng sử dụng được thiết kế và phát triển dựa trên nhu cầu của khách hàng và xu hướng thị trường. Chúng tôi rất hứng khởi khi có thể xây dựng nên tương lai của ngành vận tải đường bộ ngay tại châu Á.”
Kuehne + Nagel đã chỉ định KPMG Digital Village hỗ trợ việc phát triển etrucKNow.com.
Nền tảng etrucKNow.com là bước tiến dài của quy trình chuyển đổi công nghệ và sáng kiến eTouch tại Kuehne + Nagel nhằm thiết lập hành trình trải nghiệm kĩ thuật số liền mạch cho khách hàng.
Kuehne + Nagel là một trong những công ty logistics hàng đầu thế giới với gần 82.000 nhân viên tại 1.300 địa điểm với hơn 100 quốc gia. Công ty này cũng đồng thời sỡ hữu vị thế thị trường vững mạnh ở các lĩnh vực như vận tải đường biển, vận tải hàng không, contract logistics và vận tải đường bộ, kết hợp với mục tiêu rõ ràng là nhắm vào phân khúc cao cấp của giá trị tăng thêm, cụ thể là các giải pháp logistics tích hợp nền tảng công nghệ thông tin.
Bộ GTVT quyết định mở thêm 6 cảng cạn
- Cảng Quy Nhơn: Vinalines sẽ mua lại 75,01% cổ phần từ nhà đầu tư tư nhân
- Điểm mặt một số cảng biển quốc tế lớn trên thế giới

Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có 6 cảng cạn (ICD) và 16 điểm thông quan hàng hóa (có chức năng như cảng cạn). Trong đó, khu vực phía Bắc có 5 ICD, 7 điểm thông quan nội địa; khu vực phía Nam có 1 ICD và 9 điểm thông quan nội địa; miền Trung chưa có ICD nào.
Theo quy hoạch chi tiết phát triển hệ thống cảng cạn Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 mới được Bộ GTVT phê duyệt, giai đoạn đến năm 2025, miền Bắc sẽ có các cảng cạn, cụm cảng cạn có công suất khoảng 1,3 – 2,2 triệu TEU/năm; giai đoạn đến năm 2030 khoảng 3,8 – 5,2 triệu TEU/năm.
Khu vực miền Trung – Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất xấp xỉ 124.000 – 322.000 TEU/năm, giai đoạn đến năm 2030 khoảng 510.000 – 911.000 TEU/năm.
Khu vực miền Nam với việc tập trung nhiều cụm cảng biển trọng điểm sẽ có nhiều cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất chạm ngưỡng 4,2 – 6,1 triệu TEU/năm. Giai đoạn đến năm 2030, khu vực này sẽ có các cảng lên đến khoảng 9,5 – 13 triệu TEU/năm.
Bộ GTVT cũng cho biết, việc phát triển hệ thống cảng cạn sẽ ưu tiên, khuyến khích đầu tư trên các hành lang vận tải qua biên giới gắn với cửa khẩu quốc tế, các hành lang vận tải kết nối với cảng biển lớn ở khu vực phía Bắc (cảng Hải Phòng) và khu vực phía Nam (cảng biển TP. Hồ Chí Minh, Cái Mép – Thị Vải). Trong đó, đặc biệt chú trọng hình thành cảng cạn tại những vị trí kết nối được với hai phương thức vận tải, các khu vực gắn liền hoặc nằm gần các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, trung tâm logistics cấp I.
Theo baogiaothong.vn
WTO là gì? Việt Nam có lợi gì từ khi gia nhập WTO

WTO là gì?
WTO là viết tắt của từ Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh là World Trade Organization). Đây là một tổ chức quốc tế có trụ sở ở Geneva, Thụy Sĩ. Chức năng chính yếu của tổ chức này là nhằm giám sát các hiệp định thương mại giữa các quốc gia thành viên tham chiếu theo các quy tắc thương mại được quy định trong các hiệp ước, hiệp định chung. Mục tiêu của WTO là hạn chế đi các rào cản thương mại trong hoạt động giao thương quốc tế.
Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với thị trường rộng lớn, gồm 155 nước thành viên, chiếm 97% GDP toàn cầu.
Chức năng chính của WTO
WTO có những chức năng cụ thể như sau:
- WTO là tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên mà nội dung của nó rất đa dạng đề cập lớn tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Thông qua các cuộc đàm phán như vậy, việc tự do hoá mậu dịch của các nước trên thế giới được phát triển, đồng thời những qui tắc quốc tế mới cũng được xây dựng và sửa đổi theo yêu cầu của thời đại.
- WTO là một luật lệ quốc tế chung được các nước thành viên cùng nhau ký kết. WTO đề ra những qui tắc quốc tế về thương mại và đảm bảo các nước thành viên của WTO phải thực hiện các nguyên tắc đó. Đặc trưng của các quyết định và qui tắc của WTO là nó có hiệu lực bắt buộc tất cả các thành viên và có khả năng làm cho mọi thành viên có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện. Bất cứ một nước thành viên nào một khi đã thừa nhận “hiệp định WTO” và những hiệp định phụ khác của WTO thì nước đó cần phải điều chỉnh hay chuyển các quy định pháp luật và các thủ tục hành chính của mình theo các quy định của WTO.
- WTO có khả năng giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế. WTO có chức năng như là một toà án giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa các thành viên trong các lĩnh vực liên quan. Bất cứ một thành viên nào của WTO khi thấy lợi ích của nước mình đang bị xâm hại trong hoạt động kinh tế ở một thị trường nào đó vì có thành viên khác đang thực hiện chính sách trái với các qui tắc của WTO thì có quyền khởi tố lên cơ quan giải quyết mâu thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng các hoạt động kinh tế xâm hại đến lợi ích của mình. Bất cứ thành viên nào cũng phải chấp nhận khi bị các thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là một trong những nghĩa vụ của mọi thành viên, không nước nào có thể tránh khỏi.
- WTO hướng tới phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc giảm nhẹ qui chế. Phần lớn các nước trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đã và đang làm thủ tục để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm phán cần thiết để gia nhập WTO, các nước này có thể tìm hiểu được về hệ thống kinh tế thị trường và đồng thời xắp xếp lại những chế độ và qui tắc để có thể quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
Nguyên tắc hoạt động của WTO
Các hiệp định nằm trong khuôn khổ của WTO có tính lâu dài và phức tạp, bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động lớn. Các hiệp định được dùng để giải quyết các vấn đề liên quan đến: nông nghiệp, thủ công nghiệp, ngân hàng, bưu chính viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp, các quy định về vệ sinh, quy định về sở hữu tài sản trí tuệ,… Tuy nhiên, tổ chức này cũng đưa ra những nguyên tắc cơ bản và đơn giản để áp dụng xuyến suốt cho tất cả các hiệp định.
Nguyên tắc thứ nhất: Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xử giữa các quốc gia thành viên tham gia tổ chức. Nguyên tắc này được thẻ hiện qua hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
- Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Theo quy định của các hiệp định nằm trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc này được áp dụng như sau: Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác tham gia hiệp định một cách bình đẳng với nhau như là các đối tác được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một nước khác được hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử “tốt nhất” đó phải được giành cho tất cả các nước thành viên WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử tối huệ quốc. Nguyên tắc MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140 thành viên khác tương tự nhau. Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều đầu tiên của hiệp định chung về quan thuế và thương mại GATT về thương mại hàng hoá. Nguyên tắc MFN cũng được đề cao trong hiệp định chung về dịch vụ GATS, hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIMs tuy có khác nhau một ít ở từng hiệp định.
- Đối xử quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong nước như nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau, ít nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo nguyên tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các điều kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước. Vì thế các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong nước và không được phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch vụ nhãn hiệu thương mại, bản quyền và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước ngoài. Đối xử quốc gia chỉ áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã vào đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi phạm nguyên tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự.
Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua đàm phán.WTO đảm bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác như cấm nhập khẩu, quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như tệ quan liêu, chính sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán.
Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây dựng nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các đều khoản về chống phá giá, trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định của WTO như Nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đều nhằm mục đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các nước.
Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam kết không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như vậy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội trong tương lai.
Trong WTO, khi các nước thoả thuận mở cửa thị trường cho các hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, họ phải tiến hành ràng buộc các cam kết thuế. Đối với thương mại hàng hoá, các ràng buộc này được thể hiện dưới hình thức thuế trần.
Một nước có thể thay đổi mức thuế ràng buộc, tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiên được sau khi nước đó đã đàm phán với các nước bạn hàng và có nghĩa là phải bồi thường cho khối lượng thương mại đã bị mất. Qua vòng đàm phán Uruguay, một khối lượng thương mại lớn được hưởng cam kết về ràng buộc thuế. Tính riêng trong lĩnh vực hàng nông sản 100% sản phẩm đã được ràng buộc thuế. Kết quả là WTO đã tạo được sự đảm bảo cao hơn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
Nguyên tắc thứ năm: Các thoả thuận thương mại khu vực. WTO thừa nhận các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm các thoả thuận này tạo thuận lợi cho thương mại các nước liên quan song không làm tăng hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết.
Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
Lợi ích mà Việt nam có được khi tham gia vào WTO

Theo ông Lương Văn Tự, có thể nêu ra nhiều “cái được” của Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO. Đáng nói nhất là Việt Nam thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài nhờ có môi trường ổn định, minh bạch. Năm 2006, vốn đăng ký đạt trên 10 tỷ USD, tới năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD và tới 2008 đã tăng lên 64 tỷ USD. Tuy nhiên, do bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2010 vốn đăng ký nước ngoài giảm còn 18 tỷ và tới năm 2011 chỉ còn đạt 15 tỷ đồng. Mặc dù vậy, vốn ODA vẫn đạt tăng trưởng cao và giải ngân tăng nhanh.
Theo Bộ Công thương, xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục sau 5 năm, trung bình 19,52%/năm. Đáng lưu ý, dù kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn nhưng trong năm 2010 xuất khẩu vẫn đạt 72,2 tỷ USD (tăng 26,4%) và năm 2011 tăng lên 96,3 tỷ USD (tăng 33%). Tăng trưởng trong lĩnh vực xuất khẩu đã thúc đẩy các lĩnh vực dịch vụ phân phối, bán lẻ phát triển mạnh. Các doanh nghiệp đã tích cực mở rộng hệ thống bán lẻ, tăng chất lượng dịch vụ với nhiều loại hình phong phú. Số lượng siêu thị thành lập mới sau 5 năm gia nhập WTO tăng trên 20% (303/251) so với giai đoạn 5 năm trước đó. Riêng số lượng trung tâm thương mại được thành lập mới tăng trên 72%. Bên cạnh sự ra đời của siêu thị, trung tâm thương mại và hàng trăm cửa hàng tiện lợi theo mô hình hiện đại,…đã làm thay đổi diện mạo của thương mại bán lẻ, thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam theo hướng văn minh, hiện đại và đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, sau khi gia nhập WTO đã có bước phát triển bền vững hơn. Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo và cà phê đứng hàng thứ 2 thế giới; xuất khẩu hạt tiêu, hạt điều đứng hàng thứ nhất thế giới… Nông nghiệp của Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong diễn đàn DAVOS vừa qua.
Đối mặt với những thách thức
Những mặt được sau 5 năm gia nhập WTO không thể phủ nhận, tuy nhiên sau gia nhập WTO đất nước ta đã phải đối mặt với những vấn đề gì ? Đó là những vấn đề được nhiều chuyên gia đặt ra tại Hội thảo.
Thách thức lớn nhất là sức ép cạnh tranh gia tăng, kể cả trên thị trường trong nước do nước ta phải từng bước mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, do đã liên thông với thị trường quốc tế nên những biến động của thế giới tác động vào Việt Nam nhanh hơn và mạnh hơn. “Từ sông suối ra biển lớn” thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không khỏi bỡ ngỡ, sơ hở và thua thiệt.
Tiến sĩ Đinh Thị Mỹ Loan – Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho biết, dù ngành bán lẻ của Việt Nam đã hình thành và có những bước phát triển vượt bậc sau 5 năm gia nhập nhưng thị trường vẫn còn nhiều mặt hạn chế, như: quy mô thị trường nhỏ và sức mua yếu; phân tán, manh mún, hiệu xuất thấp; thị trường chủ yếu là bán lẻ truyền thống, bán lẻ hiện đại mới chỉ chiếm 20% trên cả nước. Doanh nghiệp bán lẻ yếu về nhiều mặt, trong đó có 4 điểm yếu cố hữu (về tính chuyên nghiệp, chiến lược dài hạn, năng lực tài chính…). “Nói cách khác khó khăn và thử thách bộn bề và vẫn còn đó những căn bệnh trầm kha trong phát triển thị trường ở cả 3 cấp độ: Nhà nước, ngành công nghiệp và doanh nghiệp”.
Ông Đỗ Hà Nam – Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, đồng thời đại diện Công ty cổ phần tập đoàn INTIMEX cho biết, khi vào “cuộc chơi” WTO, “Khó khăn đối với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng là lãi xuất quá cao. Doanh nghiệp tuy làm nhiều nhưng lợi nhuận không tương xứng do phải trả lãi vay ngân hàng quá nhiều. Nhà nước cần có chính sách để hạ lãi xuất, giúp doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh”. Ông Nam cũng cho biết bất cập trong công tác quản lý đã tạo điều kiện thiếu bình đẳng tại thị trường Việt Nam. Trong đó, doanh nghiệp nước ngoài ngày càng thêm ưu thế trên thị trường, trong khi doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mất dần lợi thế.
Tại Hội thảo, ông Lương Văn Tự cho rằng, những kết quả bước đầu sau 5 năm hội nhập là “bàn đạp” để kinh tế Việt Nam trỗi dậy, trở thành nền kinh tế mạnh trong khu vực. Tuy nhiên, những vấn đề đặt ra đòi hỏi Chính phủ phải tiếp tục hoàn thiện. “Cần thiết phải đưa các văn bản pháp luật thực thi vào cuộc sống. Trong đó các bộ, ngành cần phối hợp tốt hơn để tránh ùn tắc và hạn chế các khoảng trống trong quản lý. Thêm vào đó, cần xây dựng chiến lược hội nhập WTO lâu dài định hướng cho phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn”.
Nhiều ý kiến tại Hội thảo cũng cho rằng bài học rút ra sau 5 năm đối với kinh tế Việt Nam là làm sao phải nâng cao được năng lực cạnh tranh của Nhà nước, doanh nghiệp và sản phẩm bằng các biện pháp thiết thực; tranh thủ công nghệ tiên tiến để “thoát khỏi bẫy trung bình”, bên cạnh đó phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Xóa bỏ 500 loại thuế nhập khẩu cho hàng hóa đến từ Cuba trong năm 2019
Bộ Tài chính đang xin ý kiến rộng rãi về Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam-Cuba giai đoạn 2019-2022.

Mở cửa 99,5%
Nội dung đầu tiên được Bộ Tài chính đưa ra là nguyên tắc chuyển đổi thuế suất danh mục hàng hóa cam kết của Việt Nam với Cuba từ AHTN2012 sang AHTN2017. Cam kết của Việt Nam trong Hiệp định này được xây dựng trên cơ sở AHTN2012. Việt Nam dành ưu đãi cho Cuba đối với 475 dòng hàng, trong đó có 431 mặt hàng xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Phạm vi tự do hóa chiếm gần 100% kim ngạch.
Nhằm triển khai thực hiện cam kết trong Hiệp định, tuân thủ Hiệp định hải quan ASEAN liên quan đến việc áp dụng Danh mục Biểu thuế hài hòa ASEAN (AHTN) phiên bản 2017 của ASEAN và Danh mục hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa phiên bản 2017 của Tổ chức Hải quan thế giới, Bộ Tài chính đã tiến hành chuyển đổi biểu thuế của Hiệp định từ AHTN 2012 sang AHTN 2017 để làm cơ sở ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam cho giai đoạn 2019-2022.
Do thay đổi Danh mục từ AHTN 2012 sang AHTN 2017, biểu thuế có 34 dòng hàng AHTN2017 ở cấp độ 8 số bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi mã hàng, tách gộp dòng. Đây là những dòng hàng được gộp từ các dòng hàng theo AHTN2012 có mức thuế suất cam kết với Cuba theo danh mục EIF (xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực) và các dòng hàng thuộc diện không có trong danh mục cam kết với Cuba.
Đối với những dòng hàng này, do việc chuyển đổi mã HS trong Hiệp định không có hướng dẫn riêng nên Bộ Tài chính đã xây dựng thuế suất theo nguyên tắc lấy thuế suất của dòng ANTN2012 có mức thuế suất thấp nhất (xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với 34 dòng hàng AHTN2017) nhằm mục đích không làm giảm ưu đãi thuế nêu tại Phụ lục 2-B về Cắt giảm và/hoặc xóa bỏ thuế thuộc Hiệp định, đảm bảo hướng dẫn chuyển đổi thuế theo thông lệ của WTO, đồng thời đảm bảo tính khả thi trong triển khai thực hiện. Nguyên tắc này được đặt ra dựa trên các cơ sở: Cuba là đối tác đặc biệt; kim ngạch XNK từ Cuba đối với các dòng hàng được gộp hầu như không đáng kể và đặc thù của Biểu ban hành thực hiện thuế suất cam kết của Việt Nam trong Hiệp định là Biểu từng phần (chỉ gồm 563 dòng thuế); đảm bảo đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và thực hiện cải cách thủ tục hành chính về thuế và áp dụng thống nhất mức thuế suất đối với hàng hóa có cùng bản chất, cấu tạo, công dụng, có tính năng kỹ thuật tương tự.
Về tổng thể, sau khi thực hiện chuyển đổi từ Danh mục AHTN 2012 sang AHTN 2017, Việt Nam dành cho Cuba mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm 99,5% số dòng thuế, tương đương kim ngạch nhập khẩu giá trị 5,66 triệu USD.
Tỷ lệ giảm thu 22%
Về thuế suất, thuế suất Việt Nam – Cuba được xây dựng trên nguyên tắc tuân thủ cam kết theo Lộ trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam quy định tại Hiệp định Thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và Cuba. Về tổng thể, Biểu thuế theo AHTN 2017 giai đoạn 2018-2022 gồm 563 dòng thuế AHTN2017 theo cấp độ 8 số. Lộ trình cắt giảm thuế quan trong Biểu thuế ban hành được áp dụng cho 4 giai đoạn gồm: Từ ngày có hiệu lực đến 31/12/2019; từ 1/1/2020 đến 31/12/2020; từ 1/1/2021 đến 31/12/2021; từ 1/1/2022 đến 31/12/2022.
Theo kết cấu mới của Biểu thuế đính kèm dự thảo Nghị định, số dòng thuế thuộc các danh mục cam kết theo AHTN 2017 là 563 dòng thuế với 514 dòng thuế được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực, chiếm 91,3%; 46 dòng thuế cắt giảm theo lộ trình, chiếm 8,2% và 3 dòng thuế duy trì thuế suất cơ sở, chiếm 0,5%.
Đánh giá về tác động tới số thu, đại diện Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính cho hay, trong giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2022, mức thuế suất trung bình tại Hiệp định thương mại Việt Nam-Cuba giảm dần đều từ 3,43% năm 2019 xuống 2,12% năm 2022. Giả định kim ngạch nhập khẩu năm 2019 và các năm giai đoạn 2020-2022 không đổi so với năm 2018 và tỷ lệ sử dụng chứng nhận xuất xứ hàng hóa Việt Nam – Cuba giai đoạn 2019-2022 không đổi qua các năm, mức cắt giảm thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong Hiệp định thương mại Việt Nam-Cuba sẽ dẫn đến giảm số thu từ hoạt động nhập khẩu theo đối tác. Trên cơ sở đó, nếu mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu từ đối tác và tỷ lệ sử dụng chứng nhận xuất xứ thống kê thực tế theo từng năm tăng đủ để bù đắp mức giảm số thu từ hoạt động nhập khẩu theo đối tác nêu trên thì dự kiến sẽ dẫn đến tăng thu từ hoạt động nhập khẩu và ngược lại sẽ dẫn đến giảm thu.
Giả định mức tận dụng ưu đãi xuất xứ hàng hóa Việt Nam – Cuba đạt tỷ lệ 35% là mức tận dụng ưu đãi cao so với mức tận dụng ưu đãi trung bình tại các Hiệp định thương mại tự do năm 2016 và 2017, lúc đó, ước tính thu thuế nhập khẩu năm 2019 sẽ đạt 754,95 triệu đồng và giảm dần trong các năm tiếp theo. Đến năm 2022, ước tính giảm thu thuế nhập khẩu là 234,8 triệu đồng. Và tỷ lệ giảm thu thuế nhập khẩu trung bình giai đoạn 2019-2022 là 22%.
Hiệp định thương mại giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Cuba đã được ký kết vào ngày 9/11/2018 sau hai năm đàm phán. Hiệp định này thay thế Hiệp định giữa hai Chính phủ về trao đổi thương mại và các hình thức hợp tác kinh tế khác được ký vào 8/4/1996. Ngày 7/11/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP về việc ký Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam và Cuba. Đến nay, Bộ Công Thương đang chủ trì triển khai các thủ tục phê duyệt Hiệp định này.
Theo Báo Hải quan