Đón đầu làn sóng Outsourcing toàn cầu

0

Outsourcing được hiểu là chuyển một phần chức năng của công ty ra bên ngoài, bao gồm cả nguồn tài nguyên vật chất và nhân lực  – những chức năng mà trước đây doanh nghiệp vẫn đảm nhận.

Outsourcing không chỉ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ một nước mà còn là xu hướng mới của các cường quốc thế giới.
Outsourcing không chỉ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ một nước mà còn là xu hướng mới của các cường quốc thế giới.

Outsourcing không chỉ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ một nước mà còn là xu hướng mới của các cường quốc trên thế giới. Các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Đức, Anh đều tăng năng suất và tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thuê dịch vụ outsourcing như gia công, lắp ráp, vận chuyển,… từ các công ty bên ngoài.

Các doanh nghiệp vẫn có xu hướng outsource dịch vụ logistics trong nhiều năm tới đây.

Ngày nay, các hoạt động như vận tải nội địa, quản trị kho bãi, vận tải quốc tế, môi giới hải quan và giao nhận hàng hoá đa phần đều áp dụng Outsourcing. Trong thời đại công nghệ đang tiếp tục thúc đẩy mạnh tiêu dùng trực tuyến, một nghiên cứu về Third Party Logistics (Công ty cung cấp dịch vụ Logistics bên thứ ba hay là Logistics theo hợp đồng) đã mô tả cách thức chuỗi cung ứng sử dụng kĩ thuật số và khoa học để có thể bắt kịp với nhịp độ phát triển.

Dưới đây là một vài phát hiện đáng chú ý từ báo cáo nghiên cứu thường niên do công ty Infosys Consulting, Đại học Penn State, Pensake Logistics và Korn Ferry hợp tác thực hiện.

Thách thức hàng đầu khi đưa ra quyết định Chuỗi cung ứng

Các thách thức có thể được nhìn nhận từ hai quan điểm khác nhau: các công ty sản xuất và phân phối hàng hóa hoặc nhà cung cấp dịch vụ 3PL.

Đứng từ cái nhìn của các công ty sản xuất và phân phối hàng hoá dịch vụ, theo thứ tự, 9 mối quan tâm hàng đầu là: cơ sở hạ tầng; lực lượng lao động; nền kinh tế ổn định; minh bạch trong vận chuyển hàng hóa / chuỗi cung ứng; đối tác chiến lược / nhà cung cấp chiến lược trong khu vực; quy định pháp lý/ chính sách thuế; tình hình an ninh / tội phạm / tham nhũng; năng lực điều hành.

Nhóm doanh nghiệp 3PL cũng có cho mình những mối quan tâm tương tự, song thứ tự ưu tiên lại có một số khác biệt khi cơ sở hạ tầng, lực lượng lao động và năng lực quản lý được đưa lên đầu tiên.

Bán hàng đa kênh

Trong năm 2018 đã nổi lên cách thức mua sắm trực tuyến với hình thức giao hàng tận nhà hoặc lấy tại tiệm mà vẫn có thể ghé thăm cửa hàng thường xuyên để mua sắm hoặc hoàn trả sản phẩm.

Sự khác nhau giữa Omni Channel và Multi channel

Sự kết hợp này được gọi là Omni-channel. Với mô hình Omni-channel, sản phẩm kinh doanh được đồng bộ trên các kênh bán hàng và hoạt động trơn tru trên 1 hệ thống quản lý. Thúc đẩy khách hàng mua sắm nhiều hơn, trải nghiệm liền mạch ở bất cứ đâu dù khách hàng online bằng di động hay laptop, trên sàn thương mại điện tử hay tại cửa hàng.

Khảo sát kết quả kinh doanh năm 2017 của phầm mềm quản lý bán hàng Sapo.vn thực hiện cho thấy hầu hết các cửa hàng đều tận dụng trên 2 kênh bán hàng, trong đó Facebook, website, Zalo/Instagram, cửa hàng bán lẻ, đại lý là những kênh trực tuyến được đánh giá hiện quả nhất.

Thiên tai đe dọa đến liên kết trong chuỗi cung ứng

Khi gián đoạn xảy ra do thiên tai, thời tiết khắc nghiệt hoặc đại dịch, các siêu thị luôn thiếu các mặt hàng thiết yếu trong gia đình và các sản phẩm trên mạng sẽ nhanh cháy hàng. Sự tác động chính nằm ở chi phí vận tải và hậu cần gia tăng. Sự gián đoạn vận chuyển và mạng lưới hậu cần khiến chi phí nhà cung cấp chịu tăng cao hơn.

Nghiên cứu lưu ý rằng hai công cụ mà các doanh nghiệp và công ty logistics bên thứ ba có thể sử dụng để giảm thiểu rủi ro là công cụ giám sát và các mối quan hệ đối tác .Trong lĩnh vực phân tích dự đoán, 33% các 3PL và 17% các doanh nghiệp đang sử dụng những công cụ tiên tiến này.

Tầm quan trọng của chia sẻ dữ liệu

Chìa khóa cho mối quan hệ giữa các công ty vận tải 3PL là việc xây dựng nền tảng chia sẻ được thực hiện trong quá trình yêu cầu đề xuất (RFP). Nó đảm bảo rằng cả hai mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của cả hai bên được hiểu đúng và có những kỳ vọng hợp lý.

Trong nghiên cứu cho thấy, 36% các shipper và 25% công ty 3PL đều nhất trí về sự cần thiết của cơ hội cho đội ngũ sale giữa các bên có thể trao đổi và chia sẻ insight, dữ liệu khách hàng với nhau.

Biên tập: Hương Duyên

Quản lý tồn kho dự phòng trong chuỗi cung ứng phân cấp

0

Trên lý thuyết, mỗi mắt xích của chuỗi cung ứng đều có một sự phân phối về cung và cầu xác định để qua đó doanh nghiệp có thể thiết lập mức tồn kho dự phòng (safety inventory) cần thiết. Tuy nhiên, đó là một câu chuyện khác trong chuỗi cung ứng đa cấp.

Nhà bán lẻ cần phải nhận thức được nhu cầu thị trường cũng như những biến động của nguồn cung để thiết lập mức tồn kho dự phòng.
Nhà bán lẻ cần phải nhận thức được nhu cầu thị trường cũng như những biến động của nguồn cung để thiết lập mức tồn kho dự phòng.

Có thế lấy ví dụ bằng một chuỗi cung ứng đa cấp cơ bản gồm một nhà cung cấp và một nhà bán lẻ. Nhà bán lẻ cần phải nhận thức được nhu cầu thị trường cũng như những biến động của nguồn cung để thiết lập mức tồn kho dự phòng. Tuy nhiên, những biến động của nguồn cung lại phải phụ thuộc vào tồn kho dự phòng của nhà cung cấp.

Trong trường hợp đó, nếu nhà cung cấp có đủ hàng tồn kho khi nhà bán lẻ đặt hàng, thời gian giao hàng sẽ tương đối ngắn và ngược lại. Do vậy, việc nhà cung cấp tăng mức tồn kho dự phòng của chính mình có thể giúp giảm mức tồn kho dự phòng của nhà bán lẻ. Tóm lại, có thể nói mức tồn kho dự phòng ở mỗi mắt xích của chuỗi cung ứng đa cấp luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Tồn kho bậc thang

Đến đây, một khái niệm mới có tên “tồn kho bậc thang” xuất hiện – đó chính là tổng lượng hàng tồn kho từ một mắt xích bất kì đến mắt xích cuối cùng trong chuỗi cung ứng. Tồn kho bậc thang của một nhà bán lẻ là lượng hàng lưu kho hoặc lượng hàng cung ứng đang đang được vận chuyển.

Trong khi đó, tồn kho bậc thang của một nhà phân phối lại bao gồm tất cả lượng tồn kho của các nhà bán lẻ được cung ứng bởi nhà phân phối đó.

Mô hình ví dụ về chuỗi cung ứng đa cấp sản phẩm ketchup.

Trong chuỗi cung ứng đa cấp, điểm đặt hàng lại (reorder point) hoặc mức tồn kho cần đảm bảo (order-up-to level) tại mọi mắt xích của chuỗi cung ứng đều cần được thiết lập dựa trên tồn kho bậc thang chứ không phải theo tồn kho riêng của mắt xích đó. Do vậy, nhà phân phối nên quyết định mức tồn kho dự phòng dựa trên mức tồn kho dự phòng của tất cả nhà bán lẻ mà nhà phân phối đó cung ứng.

Điều kiện cần để đưa ra quyết định lượng tồn kho

Nếu tất cả bộ phận của một chuỗi cung ứng đều muốn quản lý tốt lượng tồn kho bậc thang của mình, việc phân chia lượng tồn kho cho mỗi bộ phận là điều rất quan trọng. Phân chia tồn kho ngược chiều chuỗi cung ứng (trong đó bộ phận xa khách hàng nhất sẽ được lưu kho nhiều nhất) giúp giảm thiểu lượng tồn kho ở mỗi giai đoạn.

Bộ phận kho xa khách hàng nhất sẽ được có tồn kho cao nhất.

Tuy nhiên, việc phân chia như vậy làm tăng khả năng có một khách hàng phải chờ đợi chỉ vì mắt xích gần nhất trong chuỗi cung ứng – có thể là một nhà bán lẻ – không thể cung cấp sản phẩm theo yêu cầu.

Do đó, trong chuỗi cung ứng đa cấp, mỗi quyết định đưa ra cần phải được dựa trên lượng tồn kho dự phòng của các bộ phận khác nhau. Nếu chi phí lưu kho cao và khách hàng có thể chấp nhận trì hoãn giao hàng, lượng lưu kho dự phòng nên được phân chia ngược chiều chuỗi cung ứng để tận dụng lợi ích của việc lưu kho kết hợp.

Ngược lại, nếu chi phí lưu kho rẻ và khách hàng thường thiếu kiên nhẫn, doanh nghiệp nên lựa chọn phương án phân chia tồn kho dự phòng xuôi chiều chuỗi cung ứng, tức là mắt xích gần khách hàng nhất sẽ có lượng lưu kho cao nhất.

Biên tập: Quang Nghĩa

Thiên tai – Kẻ thù của các nhà máy tự động hóa và Logistics

0

Tại Hoa Kỳ, mỗi mùa tuyết rơi đều khiến cho các công ty Logistics phải hủy chuyến hàng giữa hai thành phố Detroit và Ontario. Thậm chí đã từng có một cơn bão quá dữ dội khiến cho cao tốc 402 gần cảng Huron, Michigan và gần Cầu Blue Water phải đóng cửa. Trong đợt bão đó có 6 xe tải chở linh kiện đến nhà máy Brampton của tập đoàn Chrysler LLC đã chậm 36 tiếng đồng hồ.

Thiên tai - Kẻ thù của các nhà máy tự động hóa và Logistics
Thiên tai – Kẻ thù của các nhà máy tự động hóa và Logistics

Vận chuyển chậm trễ đã khiến nhà máy tự động của tập đoàn này phải ngưng sản xuất. Cơ sở sản xuất của Chrysler Brampton không phải là nhà máy duy nhất bị ảnh hưởng từ cơn bão này. Hơn 70 % hoạt động giao thương giữa Mỹ và Canada đều phụ thuộc vào cây cầu Blue Water. Chi phí tổn thất ước tính trong vòng 36 giờ tăng cao ngất ngưỡng.

Hầu hết các nhà máy tự động hóa đều dựa vào sản xuất “tức thời” – just in time manufacturing, do đó tồn kho chỉ được bổ sung khi cần thiết chứ không dự trữ nhiều. Trong trường hợp thường ngày, đây là một quy trình tối ưu, và theo Business Forward Foundation thì cách thức này giúp giảm chi phí lưu kho linh kiện một giờ khoảng 950.000 đô.

Nhưng một khi thiên tai ập tới, cái giá phải trả ước tính có thể lên tới 1,25 triệu đô một giờ đối với các nhà máy tự động. Điều này cũng tương tự khi có các yếu tố ngoài thiên tai làm đình trệ đến hoạt động sản xuất. Lý do là vì mô hình “just in time” phụ thuộc phần lớn vào sự đúng giờ của bộ phận vận chuyển, một phút trễ so với kế hoạch có thể khiến nhà xe bị phạt lên tới 10.000 đô.

Mặc dù trên thực tế, các doanh nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều về mặt tài chính. Song, trải nghiệm khách hàng chính là điều khiến họ lo lắng nếu sản xuất bị đình trệ. Và để không vấp phải vấn đề này, các phương án phòng chống thiên tai là điều cần thiết cho doanh nghiệp. Mấu chốt chính là sở hữu một kế hoạch giải quyết tất cả các tình huống có thể phát sinh gắn liền với các viễn cảnh.

Các viễn cảnh đó bao gồm trì hoãn do thời tiết, hỏa hoạn, hư hỏng máy móc, đình công, vấn đề nhà cung cấp, và nhiều rủi ro khác. Bước đầu tiên mà doanh nghiệp nên làm là dành thời gian và tài nguyên để diễn tập các tình huống trên.

Cháy rừng tại California khiến giao thông di chuyển chậm và các tài xế, hàng hóa gặp nguy hiểm.
Cơn bão tuyết làm tê liệt cao tốc 402 gần cảng Huron, Michigan
Bão tuyết làm tê liệt cao tốc 402 gần cảng Huron, Michigan

Theo một nghiên cứu của Accenture cho thấy, trong 73% doanh nghiệp đối mặt với thiên tai trong 5 năm qua, chỉ có 17% dành thời gian đánh giá và định lượng thiệt hại đã hứng chịu.

“67% các quản lý cho rằng các rủi ro kia khá là phổ biến và không cần thiết định lượng chi tiết. Và chính số đông này không ý thức về những rủi ro tiềm năng khác mà doanh nghiệp mình sẽ gặp phải trong tương lai.”

– Theo giám đốc Accenture Jade Rodysill nhận định –

Lâp kế hoạch dự phòng và bài học kinh nghiệm

Đợt thiên tai trong 10 năm đầu thế kỷ 21 như bão Katrina, động đất Nhật Bản năm 2011, siêu bão Sandy năm 2012 đã cho các giám đốc chuỗi cung ứng nhiều bài học đắt giá. Nhờ vậy, ngành công nghiệp trong những năm gần đây chứng kiến nỗ lực của các chuyên gia nằm xác định và phân tích các điểm yếu đồng thời đưa ra giải pháp.

Siêu bão Katrina làm hư hại đến các công trình giao thông tại Hoa Kỳ.
Lũ lụt khiến giao thông đình trệ nhiều ngày, gây thiệt hại hàng triệu đô cho nước Mỹ trong siêu bão Katrina.

Các giáo sư Sunil Chopra và ManMohan Sodhi đến từ Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) lưu ý một số “giải pháp” rõ ràng nhưng hữu dụng như: tăng lượng tồn kho dự phòng, bổ sung lưu trữ tại các địa điểm khác nhau và cải thiện số lượng cùng chất lượng của nhà cung cấp.

Song, mặc dù đã được các học giả cảnh báo và hiểu được tầm nghiêm trọng của vấn đề, các nhà quản lý hầu như phản ứng khá chậm. “Lý do là vì các giải pháp nói trên làm ảnh hưởng đến nỗ lực giảm thiểu chi phí chuỗi cung ứng”.

Ví dụ, một doanh nghiệp, khi đã lựa chọn thuê nhà cung cấp giá rẻ bên ngoài để giảm chi phí sản xuất, sẽ nghĩ đến việc di chuyển quy trình sản xuất về gần thị trường tiêu thụ hơn để loại trừ rủi ro gián đoạn trong chuỗi cung ứng.

Vậy thì, làm cách nào các doanh nghiệp có thể cân bằng được giữa chiến lược giảm thiểu chi phí và dự phòng cho thiên tai?

Dự phòng rủi ro

Nhà sản xuất cần thiết loại bỏ các rủi ro gián đoạn trong chuỗi cung ứng mà có thể lan rộng và dẫn đến gián đoạn trên diện rộng. Đặc biệt là những nhà sản xuất phụ thuộc nhiều vào các nhà cung cấp linh kiện. Mặc dù hai bên có thể có mối quan hệ bền vững đôi bên cùng có lợi, song, chỉ cần một cơn bão, một vụ hỏa hoạn hay vỡ nợ cũng có thể khiến nhà sản xuất tê liệt.

Một nhà cung cấp tốt có thể là lựa chọn hàng đầu, tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần phải hợp tác với hai hoặc ba supplier dự phòng khác. Những supplier dự phòng nên tọa lạc ở các cùng địa lý khác nhau để giảm thiểu khả năng tác động của yếu tố ngoại cảnh.

Phương án Vận chuyển Dự phòng

Khi CEO của Ann Taylor, Kay Krill và Loft bàn luận về tình hình hoạt động tài chính mờ nhạt của công ty vào cuối năm 2014, cô chỉ ra rằng “tình hình nhân lực tại các cảng bờ Tây đã khiến số hoãn chuyến tăng mạnh trong nửa đầu quý 3 và chi phí vận tải đường hàng không cũng tăng trong cuối giai đoạn đó.”

Thực tế, khủng hoảng tại cảng Bờ Tây đã khiến cho các các công ty dịch vụ Logistics phải tăng “khẩn cấp” phí dịch vụ. Từ việc “cứu hộ” các lô hàng mắc kẹt bằng trực thăng cho tới tái định tuyến vận tải, các công ty Logistics đã chứng tỏ năng lực của mình khi thực hiện nhiều phương án dự phòng khi khẩn cấp.

Các công ty Mỹ và Canada đang có xu hướng chuyển sang các dịch vụ vận tải khẩn cấp hơn là diễn tập các kế hoạch B dự phòng. Trong nhiều trường hợp, các chi phí gia tăng để lập kế hoạch B có thể được giảm thiểu bởi dịch vụ vận chuyển an toàn mà vẫn đảm bảo độ hài lòng của khách hàng.

Chuyên gia Maria Llamas khẳng định tầm quan trọng của việc chọn các nhà vận chuyển chính và phụ trước khi trường hợp khẩn cấp thực sự diễn ra.

“Thực hiện các biện pháp dự phòng cho phép các nhà vận chuyển tối ưu hóa thời gian giao hàng của mình”.

Biên tập: Minh Tuấn

Mùa lễ Tạ ơn: Khi gà tây gặp chuỗi cung ứng số

0

Vào ngày thứ 5 cuối cùng của tháng mười một, các gia đình ở Mỹ sẽ quây quần bên nhau và cùng nhau thưởng thức món ăn truyền thống nổi tiếng làm nên bản sắc của lễ Tạ ơn hằng năm – gà tây.

Lễ Tạ ơn: khi gà tây gặp chuỗi cung ứng số
Lễ Tạ ơn: khi gà tây gặp chuỗi cung ứng số

Gà tây đã thực sự trở thành biểu tượng mỗi khi nhắc đến lễ Tạ ơn. Nghiên cứu cho thấy rằng có đến 52 triệu con gà tây được tiêu thụ mỗi dịp lễ với giá trung bình là $1.2 mỗi pound. Quả là một nhu cầu khổng lồ và đặc biệt, tất cả chỉ diễn ra trong một ngày lễ duy nhất.

Mặc dù các nông dân Mỹ chăn nuôi 254 triệu con gà tây, với tổng giá trị là 4.85 tỷ đô mỗi năm nhưng việc đưa được chúng tới từng bàn tiệc của gia đình lại là một bài toán hóc búa với chuỗi cung ứng.

Không giống như rượu, loại đồ uống dễ trữ qua thời gian, gà tây có thể bị hư hỏng nhanh nên việc trữ với số lượng lớn rất khó. Và việc nuôi một lượt hằng triệu con để kịp giao hàng cho lễ Tạ ơn gần như là một “nhiệm vụ bất khả thi”.

Vậy giải pháp là gì?

Thực tế ước tính cho thấy có đến hơn 90% nguồn cung gà tây cho lễ Tạ ơn là loại gà đông lạnh. Tuy vậy, việc sản xuất, trữ trong kho và giao hàng chúng còn đắt hơn là giá bán tại các cửa hàng, điều đó có nghĩa là các nhà sản xuất đang mất nhiều tiền hơn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vậy vẫn với câu hỏi cũ, giải pháp là gì?

Với việc tích hợp kế hoạch kinh doanh và công nghệ số vào chuỗi cung ứng, các nhà sản xuất hoàn toàn có thể giảm thiểu chi phí để tối đa hóa lợi nhuận đạt được. Một cách để tối ưu hóa chuỗi cung ứng của bạn đó chính là hệ thống quản lý tồn kho đa cấp (multi-echelon inventory optimization – MEIO).

Tối ưu hóa tồn kho

Giả sử bạn là một nhà cung cấp lớn phục vụ cho khách hàng ở địa phương hoặc thậm chí là toàn quốc. Một các để tối ưu hóa chuỗi cung ứng – cho gà tây hoặc bất kỳ mặt hàng gì – chính là hệ thống tối ưu hóa tồn kho đa cấp (MEIO).

Martin Barkman, phó tổng giám đốc công ty giải pháp chuỗi cung ứng số SAP viết trong một blog, “Ý tưởng đằng sau MEIO là khi tối ưu hóa nhà kho cá nhân mang lại hiệu quả thấp, chúng ta sẽ mở rộng, phân cấp nhà kho thành trung tâm, khu vực và địa phương.”

MEIO cân nhắc toàn bộ chuỗi cung ứng, cho phép các doanh nghiệp tối ưu hóa mức độ tồn kho thông qua nhiều trung tâm phân phối dưới hỗ trợ của công nghệ thông tin. “Những nghiên cứu sâu bằng phương pháp phân tích nâng cao như máy học (machine learning) có thể giúp các planner đặt mục tiêu cho từng kho phân nhánh đồng thời phân tích được điều gì thực sự đang thúc đẩy nhu cầu của khách hàng.”

Logistics hiện đại cũng là một yếu tố then chốt. Để đảm bảo có được đúng số gà tây đúng thời gian và địa điểm – tại mức chi phí phù hợp – bạn cần tối ưu hóa lộ trình vận chuyển. Với các cảm biến và phân tích theo thời gian thực sử dụng dữ liệu như: vị trí bãi đỗ xe, loại hình giao thông, đặc điểm giao thông, một doanh nghiệp có thể tối ưu hóa tuyến đường và tận dụng tối đa hệ thống logistics của mình.

Với công nghệ IoT (Internet of Things), đội ngũ Logistics hoàn toàn có thể theo dõi nhiệt độ theo thời gian thực và có biện pháp khi phát hiện vấn đề.

Một mối bân tâm khác là bảo quản hàng hóa trong khi vận chuyển. Trong trường hợp gà tây đông lạnh, một trong những thử thách chính là duy trì nhiệt độ chuẩn xác của thùng xe. Với công nghệ IoT (Internet of Things), đội ngũ Logistics hoàn toàn có thể theo dõi nhiệt độ theo thời gian thực và có biện pháp khi phát hiện vấn đề.

Tươi sống mới là chuẩn nhất

Loại công nghệ tương tự cũng có thể được áp dụng để tối đa lợi nhuận trong phân khúc thị trường gà Tây ngày lễ Tạ ơn: gà Tây tươi sống.

Gà tây tươi sống là một phân khúc thị trường sinh lời khá cao trong đợt cao điểm giáng sinh hoặc lễ Tạ ơn tại Mỹ.

Với các quy chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, vận chuyển các sản phẩm tươi là điều vô cùng khó. Song, với các phương pháp phân tích dữ liệu hiện đại, doanh nghiệp có thể đầu tư hệ thống tối ưu tuyến vận chuyển từ trang trại đến bàn ăn, các nhà cung cấp có thể vận chuyển gà tây tươi sống với số lượng lớn. Cảm biến IoT sẽ giám sát chất lượng, nhiêt độ và thời gian vận chuyển. Tất cả sẽ giúp khách hàng tin tưởng hơn về chất lượng thực phẩm mà họ đã tin dùng.

Biên tập: Phương Thy

Điểm mặt một số cảng biển quốc tế lớn trên thế giới

0

Trong cuộc hành trình thú vị này, vượt qua Thái Bình Dương, con tàu LSC sẽ đưa các bạn ghé thăm những cảng biển quốc tế sầm uất nhất ở miền Tây nước Mỹ, khu vực Châu Âu lâu đời, Châu Á năng động. Nào, chúng ta cùng khởi hành thôi!

1. Hoa Kỳ

Cảng Los Angeles

TraPac Container Terminal

>> Cảng Los Angeles là một tổ hợp cảng lớn nhất ở Hoa Kì về lượng hàng hóa bốc dỡ (8,07 triệu TEUs năm 2012). Cảng nằm trên vịnh San Pedro ở San Pedro, cách trung tâm thành phố Los Angeles  32 km về phía Nam. Các đối tác thương mại hàng đầu của cảng gồm các quốc gia: Trung QuốcNhật BảnĐài LoanHàn QuốcThái Lan với những hàng hóa chủ yếu là  đồ nội thất, giày dép, đồ chơi, phụ tùng ô tô và hàng may mặc.

Cảng Long Beach

1932-port-of-long-beach-pier-b-rail-yard-855

>> Cảng Long Beach là hải cảng lớn thứ hai của Mỹ (sau cảng Los Angeles) về số lượng container bốc dỡ (6,05 triệu TEUs năm 2012), đứng thứ 22 trong top 25 cảng container lớn của thế giới. Cảng này hoạt động như một “cửa ngõ” chính cho thương mại từ Mỹ sang châu Á, đi qua Thái Bình Dương.

2. Châu Âu

Cảng Rotterdam, Hà Lan

Rotterdam_port_2_1320_892_60

>> Cảng Rotterdam là cảng biển lâu đời và lớn nhất khu vực, đồng thời cũng là trung tâm Logistics của Châu Âu. Cảng nằm ở thành phố Rotterdam, Zuid-HollandHà Lan. Từ năm 1962 đến năm 2004, Rotterdam  là cảng bận rộn nhất thế giới, tuy nhiên hiện nay đã bị cảng Thượng Hải và cảng Singapore vượt qua. Mặc dù vậy, Rotterdam vẫn là cảng bảo đảm chân hàng dồi dào, ổn định, phong phú, giải phóng tàu nhanh với lực lượng lao động nghề nghiệp giỏi, sầm uất nhất châu Âu.

Cảng Hamburg, Đức

Copy102e30d65faf3eeafc612784e90c7cc27_XL

>> Cảng Hamburg là một cảng ở HamburgĐức,  nằm bên bờ sông Elbe. Cảng có cự ly 110 km từ cửa sông Elbe đổ vào Biển Bắc. Nó được gọi là “Cửa ngõ vào thế giới” của Đức và là cảng lớn nhất ở Đức. Đây là cảng bận rộn thứ hai ở châu Âu (sau cảng Rotterdam) về lượng TEU thông qua (8,9 triệu TEUs năm 2012, xếp thứ 14 trên toàn thế giới).

3. Châu Á

Cảng Thượng Hải, Trung Quốc

shanghai_port

>> Cảng Thượng Hải là cảng lớn nhất thế giới dựa theo lượng container cập cảng (2000 tàu container mỗi tháng) và hàng hóa (736 triệu tấn mỗi năm). Nằm trên cửa ngõ của vùng biển Đông Trung Quốc, sông Dương Tử, cảng Thượng Hải nắm giữ một vị trí quan trọng đối với thương mại nước ngoài.

Việc xuất nhập khẩu hàng năm trên khắp Thượng Hải giúp nước này vượt lên Mỹ, trở thành quốc gia có nền thương mại lớn nhất thế giới.

Cảng Singapore, Singapore

Tanjong-Pagar-Terminal-Singapore

>> Cảng Singapore là cảng container lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Cảng Thượng Hải. Năm 2013, lượng hàng hóa bốc xếp tại cảng Singapore đạt 32,630 triệu TEU. Cảng Singapore đã kết nối tới hơn 600 cảng ở 123 quốc gia. Rất nhiều hàng hóa xuất khẩu của nước ta đã được trung chuyển qua cảng này trước khi vận chuyển đi thị trường các nước châu Âu, Hoa Kì và ngược lại.

Cảng Busan, Hàn Quốc

P1_New-Port

>> Cảng Busan, nằm ở cửa sông Naktong Hàn Quốc, là cảng lớn thứ năm trên thế giới dựa trên lượng hàng hóa (298 triệu tấn hàng trong năm 2013). Cảng Busan có 4 bến cảng hiện đại được trang bị đầy đủ là bến cảng Bắc, bến cảng Nam, bến cảng Dadaepo và bến cảng Gamcheon. Cảng Busan xử lý 40% tổng cước phí xuất khẩu, 80% cước vận chuyển container và 42% sản lượng thủy sản của Hàn Quốc. Những số liệu trên cho thấy vị trí quan trọng của cảng trong nền kinh tế Hàn Quốc.

5. Việt Nam

Cảng Hải Phòng

hai-phong-port-644-1451464899074

>> Cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn thứ 2 ở Việt Nam và lớn nhất miền Bắc, là cửa ngõ quốc tế của Việt Nam với thế giới. Trong đó, bến container Tân Cảng tại khu vực Đình Vũ là cảng biển đầu tiên tại Hải Phòng có đủ điều kiện kỹ thuật cho phép tàu có trọng tải 2 vạn tấn ra vào làm hàng, phù hợp với “Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển phía Bắc định hướng đến năm 2020”.

Cảng Đà Nẵng

cang-da-nang-

>> Nằm trong Vịnh Đà Nẵng, với vị trí vô cùng thuận lợi, Cảng Đà Nẵng là cảng biển nước sâu lớn nhất khu vực miền Trung Việt Nam. Năm 2014, Cảng Đà Nẵng đạt sản lượng cao nhất trong các năm vừa qua. Sản lượng hàng hóa qua Cảng Đà Nẵng đạt mức kỷ lục 6.022.045 tấn, tăng 9,5% so với kế hoạch và tăng 20,19% so với năm 2013. Đối với hàng container, sản lượng hàng năm 2014 đạt 227.340 Teus, tăng 36,5% so với năm 2013.

Cảng thành phố Hồ Chí Minh

984SGP

>> Cảng thành phố Hồ Chí Minh, hay còn gọi là cảng Sài Gòn là một hệ thống các cảng biển tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tân Cảng Cát Lái, Cái Mép, Hiệp Phước,…) đóng vai trò là cửa ngõ của miền Nam (bao gồm cả Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) trong các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Năm 2015, Cảng thành phố Hồ Chí Minh vinh dự được đứng trong top 25 cảng container của thế giới. Một thành tích thật đáng tự hào phải không nào !

  • Lời kết:

Sự chú trọng về đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển cảng biển ở các quốc gia như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc đã mang lại danh hiệu số một trên toàn thế giới cho khu vực châu Á về qui mô cũng như số lượng hàng hóa bốc dỡ tại cảng, vượt qua những đối thủ mạnh khác như châu Âu và Bắc Mỹ. Việt Nam đã và đang có những bước tiến triển vượt bậc trong việc xây dựng, vận hành cảng biển quốc tế trong những năm gần đây. Chúng ta cùng hi vọng rằng trong tương lai, cảng biển ở Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ và đem lại nguồn lợi kinh tế “khổng lồ” cho đất nước.

Cảm ơn các bạn độc giả đã tham gia chuyến đi này đến giây phút cuối cùng.

Biên tập: Xuân Thành

Cảng Quy Nhơn: Khuất tất trong cổ phần hóa – Bộ và tỉnh đều sai!

0

Ngày 17-9, kết luận thanh tra toàn diện của Thanh tra Chính phủ (TTCP) đã được công bố, qua đó làm rõ việc chấp hành các quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện cổ phần hóa Công ty TNHH MTV Cảng Quy Nhơn.

Cảng Quy Nhơn - cảng biển chiến lược quan trọng bị cổ phần hóa với nhiều khuất tất.
Cảng Quy Nhơn – cảng biển chiến lược quan trọng bị cổ phần hóa với nhiều khuất tất.

Kết luận của TTCP chỉ ra quá trình cổ phần hóa cảng Quy Nhơn đã để xảy ra hàng loạt sai phạm, khuất tất để thâu tóm. Đơn vị định giá có nhiều vi phạm khi định giá cảng với “giá bèo” chỉ hơn 400 tỉ đồng, để sau đó phần lớn cổ phần thuộc về Công ty Hợp Thành, một doanh nghiệp chỉ chuyên về khai khoáng và thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực cảng biển.

“75,01% cổ phần Vinalines đã chuyển nhượng cho Công ty Hợp Thành phải được xử lý thu hồi về sở hữu nhà nước. Trách nhiệm thuộc về tập thể, lãnh đạo và cá nhân có liên quan của Bộ GTVT.” – Thanh tra Chính phủ nêu rõ.

Sai phạm khi thoái hết vốn nhà nước

Thông qua bản kết luận, TTCP xác định việc cổ phần hóa, thoái hết vốn nhà nước tại cảng Quy Nhơn là chưa đúng với đề án tái cơ cấu Tổng công ty Hàng hải Việt Nam trong giai đoạn 2012-2015.

Cụ thể, Thủ tướng và Bộ GTVT chỉ đạo cho phép UBND tỉnh Bình Định cổ phần hóa cảng Quy Nhơn theo hướng Nhà nước nắm giữ 49% vốn điều lệ nhưng sau đó tỉnh lại tiếp tục đề nghị Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng cho bán hết 49% vốn nhà nước.

Chưa dừng lại ở đó, bí thư Tỉnh ủy Bình Định còn có văn bản đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ bán toàn bộ 49% cổ phần của Nhà nước tại Công ty cổ phần Cảng Quy Nhơn.

Những việc làm này là không đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, không đúng với đề án tái cơ cấu Vinalines giai đoạn 2012-2015 đã được Thủ tướng phê duyệt (theo đề án, Nhà nước phải nắm giữ 75% vốn điều lệ khi cổ phần hóa cảng Quy Nhơn).

TTCP xác định: trách nhiệm thuộc về một số lãnh đạo tỉnh Bình Định nhiệm kỳ 2010-2015.

Tương tự, việc Bộ GTVT liên tiếp có văn bản đề nghị Thủ tướng cho bán hết 49% vốn nhà nước tại cảng Quy Nhơn là thiếu căn cứ pháp lý, thiếu cơ sở thực tiễn, không thực hiện hiệu quả trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực và đại diện chủ sở hữu đối với Vinalines.

Không chỉ vậy, Bộ GTVT còn chỉ đạo Vinalines về phương thức chuyển nhượng vốn nhà nước tại cảng Quy Nhơn không rõ ràng, thiếu nhất quán. Bộ đã ban hành hai văn bản chuyển nhượng 26,01% cổ phần và chuyển nhượng 49% cổ phần tại Công ty cổ phần Cảng Quy Nhơn cho Công ty Hợp Thành theo phương thức thỏa thuận trực tiếp mà không báo cáo và chưa được Thủ tướng cho phép. Đây là hành động trái thẩm quyền, vi phạm nhiều quy định.

“Vì vậy, hai văn bản này phải được xem xét, hủy bỏ; 75,01% cổ phần Vinalines đã chuyển nhượng cho Công ty Hợp Thành phải được xử lý thu hồi về sở hữu nhà nước. Trách nhiệm thuộc về tập thể, lãnh đạo và cá nhân có liên quan của Bộ GTVT” – TTCP kết luận.

Cẩu trục chuyên dùng bốc dỡ hàng hóa của cảng Quy Nhơn.
Cẩu trục chuyên dùng bốc dỡ hàng hóa tại cảng Quy Nhơn.

Bất thường trong khâu định giá

Theo kết luận thanh tra, giá trị thực tế của cảng Quy Nhơn tại thời điểm 31-3-2013 để cổ phần hóa là 513,823 tỉ đồng; nợ phải trả là 109,723 tỉ đồng; giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán là 192,579 tỉ đồng, giá trị thực tế vốn nhà nước xác định lại là hơn 404 tỉ đồng, tăng 211,52 tỉ đồng so với giá trị trên sổ sách kế toán. Tổng số tiền Vinalines thu được từ việc cổ phần hóa cảng Quy Nhơn và thoái hết 75,01% vốn đầu tư tại đây là gần 537 tỉ đồng.

Tuy nhiên cơ quan thanh tra kết luận các đơn vị định giá đã có nhiều vi phạm trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp dẫn đến thẩm định giá sai, thiếu căn cứ. Đó là hai đơn vị: Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn thuế (ATC) – thẩm định giá cổ phần để chuyển nhượng 26,01% cổ phần; Công ty hợp danh Kiểm toán Việt Nam (CPA) – thẩm định giá cổ phần để chuyển nhượng 49% cổ phần.

Theo TTCP, đối với những khuyết điểm, vi phạm nêu trên, trách nhiệm chính thuộc về các công ty tư vấn (ATC, CPA) và các thẩm định viên; ngoài ra, không thể không kể tới phần trách nhiệm của HĐTV Vinalines, ban chỉ đạo cổ phần hóa, tổ giúp việc trong việc thẩm định, phê duyệt giá trị doanh nghiệp, giá cổ phần.

Trao đổi về vụ việc này, hai nguyên bí thư Tỉnh ủy Bình Định là ông Tô Tử Thanh và ông Vũ Hoàng Hà đều cho rằng cảng Quy Nhơn có giá trị hàng ngàn tỉ đồng nhưng được cổ phần hóa 100% với giá chỉ hơn 400 tỉ là “rất bất thường”.

Một cán bộ thuộc Thanh tra Chính phủ phân tích: những vi phạm trong quá trình thẩm định giá được nêu trong kết luận cho thấy cảng Quy Nhơn đã bị làm giảm giá trị để bán cho tư nhân. Vị này nói: “Nếu như vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG thì định giá với số liệu trên trời, tăng vọt lên để gây thiệt hại vốn nhà nước thì quá trình cổ phần hóa cảng Quy Nhơn vốn nhà nước bị định giá và bán với giá rất rẻ để bán cho tư nhân”.

Theo Tuoitre.vn

Cảng Quy Nhơn đã bị Hợp Thành thâu tóm ra sao?

0

Làm thế nào trong bối cảnh lỗ triền miên, doanh nghiệp Hợp Thành vẫn “xoay sở” tiền để thâu tóm cảng Quy Nhơn và thậm chí dù không có kinh nghiệm vận hành cảnh biển, công ty tư nhân này vẫn đủ điều kiện để thực hiện thương vụ?

Tổng tài sản được kê lên tới hàng nghìn tỉ đồng, song bảng báo cáo tài chính của Công ty CP đầu tư và khoáng sản Hợp Thành, chủ cảng Quy Nhơn hiện nay, lại báo lỗ triền miên trong khi thực hiện thương vụ thâu tóm cảng Quy Nhơn.

Không xét đến khía cạnh hoạt động tài chính của công ty, các chuyên gia lại đang “xoáy” vào vấn đề tiền đâu để công ty Hợp Thành thâu tóm cảng Quy Nhơn, và tại sao dù không sở hữu tí kinh nghiệp trong lĩnh vực cảng biển, doanh nghiệp tư nhân này vẫn đạt điều kiện để quản lý cảng Quy Nhơn.

Lỗ lũy kế nhưng vẫn vung tiền “chơi lớn”

Thông tin từ hệ thống dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư), Công ty TNHH MTV Cảng Quy Nhơn (vốn điều lệ 168,28 tỷ đồng) khởi động quy trình cổ phần hóa vào tháng 11/2013 theo đề án đã duyệt. Vào thời điểm này, Công ty Hợp Thành (trụ sở 57 Trần Quốc Toản, Hoàn Kiếm, Hà Nội) đã mua lại 5,03 triệu cổ phần, sở hữu 12,46% vốn cổ phần cảng Quy Nhơn.

Sau thương vự trên, Hợp Thành đã cùng với Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) trở thành cổ đông sáng lập Công ty cổ phần Cảng Quy Nhơn với số vốn điều lệ ban đầu là 404,09 tỷ đồng.

Đến tháng 4-2015, Công ty Hợp Thành tiếp tục mua thêm 24,77% cổ phần, nâng tỉ lệ sở hữu cổ phần tại cảng Quy Nhơn lên 37,23% cổ phần. Ngược lại, tỉ lệ nắm giữ cổ phần của Vinalines tại cảng Quy Nhơn giảm xuống còn 49%.

Bước ngoặt trong quá trình đổi chủ cảng Quy Nhơn diễn ra tháng 9-2015 khi Công ty Hợp Thành bỏ ra khoảng 198 tỉ đồng mua thêm 49% cổ phần tại Công ty CP Cảng Quy Nhơn từ Vinalines, nâng tỉ lệ vốn sở hữu tại cảng Quy Nhơn lên 86,23% và chính thức trở thành doanh nghiệp sở hữu cảng biển có vị trí chiến lược quan trọng tại miền Trung.

Quy trình thâu tóm cảng Quy Nhóm kết thúc vào tháng 10/2015, công ty CP Cảng Quy Nhơn đã thay đổi người đại diện pháp lý trong lần đăng ký thay đổi thông tin doanh nghiệp lần thứ VI. Ông Lê Hồng Thái, cổ đông sáng lập của Hợp Thành trở thành Tổng giám đốc mới của cảng Quy Nhơn.

Cho tới tháng 02/2017, Ủy ban Kiểm tra TW đã tiến hành thanh tra quy trình cổ phần hóa cảng Quy Nhơn. Lúc này, ông Thái đã chuyển 45% vốn Hợp Thành lại cho bà Trần Thị Quỳnh Yên – giám đốc công ty CP đầu tư và khoáng sản Hợp Thành.

Và trong nội dung thay đổi thông tin doanh nghiệp lần thứ 15 (30-3-2017), ông Lê Hồng Thái – cổ đông sáng lập Hợp Thành – đã không sở hữu bất kỳ cổ phần nào tại Hợp Thành.

Điều đáng nói là trong thời gian thực hiện thương vụ thâu tóm cảng Quy Nhơn, Công ty Hợp Thành liên tục thua lỗ.

Cụ thể, theo báo cáo tài chính của Công ty Hợp Thành, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp này bị lỗ 154,4 tỉ đồng trong năm 2014, mức lỗ giảm xuống còn 39,6 tỉ đồng vào năm 2015 và trong năm 2016 doanh nghiệp này tiếp tục lỗ thêm 81 tỉ đồng.

Một góc kho hàng container thuộc cảng Quy Nhơn – cảng biển có vị trí chiến lược quan trọng tại miền Trung

Kẻ “Ngoại đạo” với lĩnh vực cảng biển

Vào thời điểm thâu tóm cổ phần cảng Quy Nhơn, công ty Hợp Thành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực không liên quan đến cảng biển, chỉ đăng ký hoạt động kinh doanh các lĩnh vực: buôn bán nhiêu liệu dầu thô, xăng, khí đốt, sản phẩm liên quan, sản xuất sợi, săm lốp cao su, sản phẩm chất dẻo, nhựa tổng hợp.

Chỉ tính tới tháng 04/2013, trong quá trình mua lại đa số cổ phần cảng Quy Nhơn, Hợp Thành mới đăng ký bổ sung hàng loạt ngành nghề liên quan đến cảng biển, vận tải hàng hóa ven biển và viễn dương, vận tải hành khách đường thủy nội địa, kinh doanh kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bốc xếp hàng hóa.

Số ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của công ty này đã tăng đột biến từ 9 lên 34 ngành nghề.

Cổ đông chiến lược “ngoại đạo” với lĩnh vực cảng biển

TS Ngô Trí Long, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính), cho rằng việc Nhà nước tiến hành cổ phần hóa cảng Quy Nhơn không ngoài mục đích tìm được nhà đầu tư chiến lược để cảng biển này phát triển hơn, bảo đảm đời sống của người lao động.

Do đó, việc bán cảng Quy Nhơn cho Hợp Thành, một doanh nghiệp không có kinh nghiệm trong lĩnh vực cảng biển, khó có thể xem là lựa chọn hợp lý.

Ngoài ra, theo ông Long, cần xem lại việc nới room cho doanh nghiệp tư nhân mua gần hết cổ phần cảng Quy Nhơn, được xem như là “yết hầu” trong việc lưu thông hàng hóa bằng đường biển không chỉ của tỉnh Bình Định mà cả khu vực Nam Trung Bộ.

“Cảng Quy Nhơn là một cảng tiền tiêu rất quan trọng, không phải để bán đứt, đặc biệt là bán cho một doanh nghiệp không có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, nên cần truy trách nhiệm người quyết định bán đứt cảng này” – ông Long nói.

Theo Tuoitre.vn

Nhà nước phải nắm quyền chi phối cảng Quy Nhơn

0
Ba bộ gồm Giao thông – Vận tải, Tài chính và Nội vụ được Thủ tướng chỉ đạo hỗ trợ tỉnh Bình Định trong việc xác định lại tỉ lệ cổ phần theo hướng Nhà nước nắm cổ phần chi phối cảng Quy Nhơn, tạo tiền đề để đầu tư nâng cấp và mở rộng.
Cảng Quy Nhơn
Cảng Quy Nhơn

Dù khẳng định việc chuyển giao cảng Quy Nhơn cho một doanh nghiệp tư nhân không có kinh nghiệm về lĩnh vực cảng biển là có khuất tất, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng nhà nước sẽ gặp khó khăn khi mua lại cổ phần doanh nghiệp này, trừ trường hợp các cơ quan chức năng chứng minh quá trình cổ phần hóa cảng này có nhiều sai phạm.

Quyền chi phối phải thuộc về Nhà nước

Tại buổi làm việc với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ngày 20-1-2018, ông Nguyễn Thanh Tùng – bí thư Tỉnh ủy Bình Định – đã nêu ra một số đặc điểm của cảng Quy Nhơn như có vị trí chiến lược quan trọng, là cửa ngõ của Tây Nguyên, Hạ Lào và đông bắc Thái Lan ra Biển Đông.

Tuy nhiên, với việc cảng này bị chuyển giao cho doanh nghiệp tư nhân thông qua cổ phần hóa, chính quyền địa phương rất lúng túng, không biết quy hoạch ra sao, chỉ đạo phát triển như thế nào. Do đó, bí thư Bình Định đề nghị Thủ tướng xem xét, tìm giải pháp để Nhà nước nắm giữ 75% cổ phần cảng Quy Nhơn.

Tiếp đó, trong cuộc làm việc với đoàn công tác do Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng dẫn đầu vào tháng 7-2018, ông Hồ Quốc Dũng – chủ tịch UBND tỉnh Bình Định – cũng đề nghị Thường trực Ban Bí thư quan tâm xem xét, chỉ đạo Chính phủ đưa ra cơ chế để Nhà nước, mà đại diện là chính quyền địa phương, nắm giữ cổ phần chi phối cảng Quy Nhơn.

Theo ông Hồ Kim Lân – tổng thư ký Hiệp hội Cảng biển VN, cảng Quy Nhơn có lợi thế và tiềm năng phát triển hàng đầu khu vực miền Trung. Đặc biệt, với việc hàng nông sản, lâm sản từ Campuchia xuất khẩu qua đây thuận tiện, nhiều thời điểm cảng Quy Nhơn có sản lượng khai thác nhiều hơn cảng Đà Nẵng.

Bởi vậy, việc bán một cảng biển lớn cho một nhà đầu tư không có kinh nghiệm khai thác cảng là bất hợp lý, chỉ nên bán cảng cho một nhà đầu tư chuyên khai thác cảng vì đối với một cảng lớn như Quy Nhơn, đơn vị kinh doanh khai thác phải rất chuyên nghiệp.

“Nếu bán cho một nhà đầu tư nhắm đến lợi ích khác như mặt đất, mặt biển để phục vụ mục đích kinh doanh khác và xem cảng biển như một bình phong để ưu tiên phát triển những dự án đầu tư kinh doanh riêng là không nên” – ông Lân nói.

Theo TS Ngô Trí Long, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả trực thuộc Bộ Tài chính, cảng Quy Nhơn là một cảng tiền tiêu rất quan trọng, được xem như yết hầu trong hoạt động lưu thông hàng hóa bằng đường biển của tỉnh Bình Định và cả khu vực Nam Trung Bộ, nên không thể bán đứt cho một doanh nghiệp tư nhân.

Ông Long cho rằng việc cổ phần hóa cảng Quy Nhơn phải đảm bảo tìm được nhà đầu tư chiến lược để cảng biển này phát triển. Do đó, cần phải xem lại việc bán cảng Quy Nhơn cho Công ty Hợp Thành – một doanh nghiệp chuyên về khai thác khoáng sản, luyện thép… và không có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý cảng biển.

Định giá và đàm phán mua lại

TS Võ Ngọc Anh – viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế Bình Định – nhận định phương án để Nhà nước nắm quyền chi phối cảng Quy Nhơn còn cần phải chờ kết luận của Thanh tra Chính phủ.

“Nếu kết luận thanh tra khẳng định việc cổ phần hóa cảng này không đúng các quy định, có sai phạm, phải hủy kết quả, cảng sẽ trở về là cảng nhà nước. Còn nếu kết luận thanh tra xác định rằng việc cổ phần hóa cảng này là đúng, Nhà nước phải bỏ tiền ra mua lại cổ phần đến mức nắm quyền chi phối” – ông Anh nói.

Ông Tô Tử Thanh – nguyên bí thư Tỉnh ủy Bình Định – cho rằng muốn nắm quyền chi phối cảng Quy Nhơn thì đầu tiên phải xác định giá trị thực tế của cảng, sau đó xác định số cổ phần Nhà nước cần nắm để giữ quyền điều hành cảng này.

“Số cổ phần còn lại thì ưu tiên bán cho doanh nghiệp đã mua cảng trước đây, nếu họ không mua nữa thì mới kêu gọi những nhà đầu tư trong nước khác” – ông Thanh đề xuất.

Theo ông Lê Song Lai – phó tổng giám đốc Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, việc mua lại một doanh nghiệp sau cổ phần hóa, bán vốn là chưa có tiền lệ. Tuy nhiên, tỉnh Bình Định cũng cần phải thuê định giá độc lập để biết được giá trị cảng Quy Nhơn hiện nay trước khi đàm phán mua lại.

Các đơn vị thẩm định giá sẽ tính toán lại giá trị cảng biển, trong đó có giá trị đất đai của cảng tùy theo thời điểm nhà đầu tư mua cảng.

Nếu phải mua lại cảng Quy Nhơn, theo ông Vũ Hoàng Hà – nguyên bí thư tỉnh Bình Định, Nhà nước cần thương thảo với các nhà đầu tư vào cảng hiện, bởi giá trị đầu tư của cảng rất khác sau vài năm cổ phần hóa.

Theo đó, Nhà nước có thể giao cho một doanh nghiệp nhà nước mua lại cảng Quy Nhơn đến mức nắm quyền chi phối, chứ không thể dùng ngân sách để mua.

“Cũng phải kiểm tra lại số tiền bán cảng Quy Nhơn để ở đâu, sử dụng vào việc gì, phải lấy nguồn vốn ấy để góp phần mua lại cảng. Cá nhân tôi nghĩ Nhà nước nên sở hữu 51%, 49% còn lại thì bán cho nhà đầu tư khác. Nếu tỉ lệ cổ phần hóa quá thấp, nhà đầu tư cũng không muốn tham gia” – ông Hà đề xuất.

Nhận xét về sự việc này, TS Trần Du Lịch – Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM – cho rằng Cảng Quy Nhơn có vị trí rất quan trọng, cả kinh tế lẫn an ninh quốc phòng nhưng chính quyền địa phương không có vai trò gì là điều rất đáng lo ngại. Vấn đề ở đây không chỉ là kinh tế mà còn là an ninh quốc phòng, chiến lược quốc gia và tầm nhìn dài hạn.

Theo Tuoitre.vn

Thương mại điện tử và những thách thức cho chuỗi cung ứng

0

Thương mại điện tử – hình thức mua bán sản phẩm, dịch vụ thông qua mạng Internet – đang rất được ưa chuộng trong những năm gần đây với những ưu điểm về sự nhanh chóng, tiện lợi và ngày càng đa dạng. Các công ty đua nhau tham gia vào thị trường béo bở này, và quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả sẽ là nhân tố quyết định thành bại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt ấy.

Thương mại điện tử và những thách thức cho chuỗi cung ứng
Thương mại điện tử và những thách thức cho chuỗi cung ứng

Từ sự phát triển của thương mại điện tử

Thời đại Internet và số hóa hiện đại ngày nay đã và đang tạo tiền đề cho sự vươn mình mạnh mẽ của các hình thức giao dịch thương mại điện tử. Trong thập kỷ vừa qua, thương mại điện tử đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc trung bình 20% mỗi năm với những ảnh hưởng to lớn đến tất cả các ngành từ vận tải giao nhận đến hàng hóa tiêu dùng. Theo dự đoán của eMarketer, doanh thu bán lẻ kênh thương mại điện tử trên toàn cầu sẽ nhảy vọt từ 1.9 nghìn tỷ USD năm 2016 lên đến hơn 4 nghìn tỷ USD vào năm 2020. Tại thị trường châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, với số lượng người yêu thích sản phẩm công nghệ và sử dụng điện thoại thông minh ngày càng gia tăng, thương mại điện tử cũng đang chứng minh sức hút của mình với mức tăng trưởng trên mức trung bình.

Sự xuất hiện và xu hướng áp dụng omni-channel vào thương mại điện tử cũng là một bước tiến với những ảnh hưởng to lớn tới ngành công nghiệp này. Không chỉ đơn giản là sử dụng hàng loạt các kênh tiếp thị như website, mạng xã hội, ứng dụng điện thoại, máy tính, áp phích quảng cáo… để thu hút người tiêu dùng, omni-channel đặc biệt chú trọng tới việc đem đến một trải nghiệm liền mạch và thống nhất cho những khách hàng tiềm năng của mình. Nó tạo sự thuận tiện tối đa cho quá trình đặt mua hàng, giúp khách hàng cảm thấy được quan tâm và tôn trọng. Mua sắm online vì thế mà trở nên đơn giản hơn bao giờ hết, và chính điều này đã biến thương mại điện tử thành một phương thức mua bán ngày càng phổ biến.

Tới những thách thức cho chuỗi cung ứng: 

Sự tăng trưởng của thương mại điện tử đồng thời cũng gia tăng sự mong đợi của khách hàng. Họ muốn có nhiều sự lựa chọn hơn, được giao hàng nhanh hơn, được cập nhật trạng thái đơn hàng cũng như cung cấp các chính sách đổi trả thỏa đáng. Tất cả những yêu cầu trên đòi hỏi chuỗi cung ứng phải tiến hành những thay đổi, cải tiến trong các lĩnh vực nhất định để có thể mang lại dịch vụ tốt nhất cho khách hàng:

  • Nâng cao khả năng hiển thị hàng tồn kho: Quản lý hàng tồn kho luôn luôn là khía cạnh vô cùng quan trọng trong chuỗi cung ứng, đặc biệt là khi mua bán đa kênh phát triển. Khả năng hiển thị hàng tồn tốt sẽ cung cấp khả năng xử lí những đơn hàng online mà không cần phải thực sự sở hữu mặt hàng đó trong kho. Khi hệ thống các kênh thương mại điện tử và quản lý đơn hàng được đồng bộ, quy trình xử lí có thể được diễn ra thuận lợi hơn: hàng sẽ được kiểm kê và xuất kho từ trung tâm phân phối gần nhất hoặc mua ngoài để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
  • Rút ngắn thời gian giao hàng: Việc thêm chức năng phân phối cho các điểm bán lẻ là một trong những xu hướng góp phần rút ngắn thời gian giao hàng. Các cửa hàng có thể vừa là nơi người mua đến nhận hàng từ đơn đặt online, vừa là nơi xử lí đơn hàng để chuyển phát tới những nơi khác. Walmart đã áp dụng phương thức này một cách sáng tạo bằng cách để nhân viên chuyển phát những đơn hàng tới những địa điểm tiện trên đường về nhà của họ. Tuy vậy, hầu hết các cửa hàng bán lẻ khó có thể thực hiện chức năng này vì sự hạn chế trong không gian kho và khả năng hiện thị hàng tồn.
  • Tối ưu hóa quy trình đổi trả: Đổi trả hàng là vấn đề cần được lưu tâm trong giao dịch online. Rất nhiều rủi ro có thể gặp phải trong quá trình vận chuyển, và những truy vấn liên quan cũng như yêu cầu đổi trả của khách hàng cần được giải quyết ổn thỏa nếu công ty muốn giữ uy tín và không để mất khách hàng của mình. Vì vậy, logistics thu hồi trở thành một khía cạnh cần được đầu tư kĩ càng để có thể đạt hiệu quả tối ưu và đáp ứng yêu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.

Nhìn chung, sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử đang góp phần đa dạng hóa các hình thức kinh doanh và thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng, đem lại lợi nhuận cho rất nhiều tổ chức hoạt động ở bất cứ quy mô nào. Tuy nhiên, đằng sau đó là yêu cầu về những ứng dụng công nghệ tiên tiến phù hợp, về tính hiệu quả và sự linh hoạt của cả một chuỗi cung ứng để có thể thích nghi với thị trường điện tử tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức.

Biên tập: Phương Thúy

Năm phát minh về đóng gói đã làm thay đổi FMCG mãi mãi

0

Việc đóng gói đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nhất là đối với những mặt hàng tiêu dùng nhanh bởi nó gần như là yếu tố thu hút khách hàng đầu tiên. Không những giúp bảo quản sản phẩm và mang tính thẩm mỹ, bao bì của sản phẩm còn tạo nên những cuộc cách mạng trong FMCG mà sự thành công của chúng chính là thói quen sử dụng mặt hàng tiêu dùng nhanh  ngày hôm nay của chúng ta.

NĂM PHÁT MINH VỀ ĐÓNG GÓI NÀY ĐÃ LÀM THAY ĐỔI FMCG MÃI MÃI
NĂM PHÁT MINH VỀ ĐÓNG GÓI NÀY ĐÃ LÀM THAY ĐỔI FMCG MÃI MÃI

Những sản phẩm bạn sử dụng hằng ngày đều mang trong mình những câu chuyện đằng sau sự xuất hiện của nó. Dưới đây là năm câu chuyện thú vị nhất về năm phát minh đã làm nên một cuộc cách mạng trong FMCG.

1. Thực phẩm đóng hộp

Thực phẩm đóng hộp mà chúng ta vẫn sử dụng hằng ngày tưởng chừng là một thứ hết sức bình thường thế nhưng đó lại là một phát minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong ngành thực phẩm. Vào cuối thế kỉ 18, Hải Quân Anh đứng trước một thách thức khi số lượng thủy thủ bỏ mạng trên biển ngày càng tăng do chế độ ăn uống nghèo nàn gồm thịt muối và bánh bích quy. Bộ Hải quân Anh nhận ra họ cần phải thay đổi nếu họ muốn xây dựng lại Đế chế của mình. Nhưng làm thế nào để cung cấp thực phẩm và bảo quản chúng không bị hư hỏng ? Với sự hậu thuẫn của vua George III, thương gia Anh Peter Durant đã tìm ra giải pháp là tìm cách đóng hộp để bảo quản chúng và từ đó đánh dấu sự ra đời của sản phẩm hôm nay.

Thực phẩm đóng hộp không chỉ là cuộc cách mạng đối với sản xuất lương thực, nó còn nâng cao chất lượng cuộc sống của con người thông qua cung cấp những sản phẩm đa dạng, chất lượng và giá cả hợp lí. Mặc dù hiện nay nó đang bị đe dọa bởi sự xuất hiện của lò vi sóng và những phát minh tương tự, nhưng có một sự thật rằng, thực phẩm đóng hộp vẫn giữ một vị trí quan trọng trong chúng ta.

2. Sự xuất hiện của chai có nắp vặn

Mặc dù không có một xác nhận rõ ràng về người phát minh ra chai sử dụng nắm vặn như vít, nhưng không có nghi ngờ gì khi nói John Landis Mason – người sáng lập bình Mason, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển những nguyên mẫu đầu tiên. Vào cuối thế kỉ 20, một công ty Pháp đã tạo ra công nghệ Stelvin – sản xuất hằng loạt các nắp vặn để đóng chai rượu vang, từ đó tạo ra một sự thay đổi lớn trong cách chúng ta lưu trữ rượu vang, nước uống, và một số thực phẩm khác đến tận bây giờ.

3. Corner Yogurt

60 năm về trước, bạn chỉ thể tìm thấy sữa chua trong những cửa hàng y tế và nó sẽ mang một hương vị khác biệt so với những loại sữa chua bây giờ. Sau đó, vào đầu những năm 1960, một công ty của Thụy Sĩ có tên Ski đã có sáng kiến tuyệt vời khi thêm đường và trái cây vào sữa chua. Sau đó nữa là Müller, hãng sữa tư nhân từ Đức cũng mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhờ vào sự đầu tư mạnh với những thông điệp về sữa chua như một thứ đồ ăn nhẹ lành mạnh, sữa chua và sự phổ biến của nó đã làm nên một sự bùng nổ thật sự.

Sự thành công của bao bì trong việc tách sữa chua và trái cây là việc đặt sự quan tâm đến người tiêu dùng trong quá trình ăn uống. Bạn không chỉ mua sữa chua, bạn được tương tác và cá nhân hóa thông qua việc quyết định thêm vào vị yêu thích của bạn. Sự tương tác rất quan trọng bởi nó đã dẫn đường cho nhiều thương hiệu FMCG ngày nay bỏ qua việc hàm lượng đường và chất béo cao mà hướng đến khẩu vị của người tiêu dùng.

4. Tetra Pak

Khoảng một trăm nay về trước, Ruben Rausing, con trai của một họa sĩ người Thụy Điển, đã mua lại một công ty bao bì nhỏ ở Đan Mạch. Ông biết rằng việc phân phối sữa và nước trái cây trong chai thủy tinh cồng kềnh có thể được cải thiện, nhưng làm thế nào? Phải mất 30 năm đầu tư liên tục với niềm tin vững chắc, cuối cùng vào cuối những năm 1960, Rausing và các đồng nghiệp của mình đã khám phá ra cách để đóng chai sữa, nước trái cây và các thực phẩm dạng lỏng khác trong điều kiện vô trùng và có thể bảo quản trong một thời gian dài. Và đó là lúc Tetra Pak ra đời.

Tetra Pak cung cấp một bước thay đổi trong ngành bằng việc kéo dài thời hạn bảo quản lên đến một năm đối với những sản phẩm mà trước đây phải tiêu thụ trong ngày. Không có gì ngạc nhiên khi Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ Thuật Thụy Điển gọi Tetra Pak là “một trong những phát minh thành công nhất mọi thời đại”. Số lượng bán ra của Tetra Pak vào năm 2015 là 184 tỷ hộp.

5. Bao bì có thể tiêu thụ và tan được

Dân số thế giới tiếp tục bùng nổ kéo theo số lượng bao bì bị vứt đi mỗi ngày tăng lên đáng kể. Chỉ riêng ở Anh, theo ước tính con người đã tạo ra 8 triệu ly phế phẩm thông qua việc tiêu thụ café mỗi ngày. Bên cạnh đó là những loại bao bì khác,gói thuốc lá,… đang ngày càng tạo ra một “biển rác” thật sự trong tương lai. Trong lúc đó ở Thụy Điển, tại Tomorrow Machine, họ đang làm việc với mong muốn tạo ra một số bao bì cực kỳ phong cách và thân thiện với môi trường. Phát minh đầu tiên của họ là một bữa ăn nhẹ “thu nhỏ”. Khi nước nóng được đổ vào, nó sẽ biến thành một bát làm bằng vật liệu phân huỷ sinh học. Phát minh này không chỉ độc đáo từ thiết kế mà chúng còn thân thiện với môi trường . Và nếu một nhà khổng lồ ngành công nghiệp đầu tư và áp dụng nó, chúng ta có thể trông chờ những thay đổi tích cực trong tương lai.

  • Kết luận:

Năm phát minh trên đã tạo nên những cuộc cách mạng không những thay đối thói quen ăn uống của chúng ta mà còn thúc đẩy FMCG phát triển lên những tầm cao mới. Lần tới mỗi khi sử dụng những sản phẩm này, các bạn hãy thử quan sát thật kỹ bao bì của chúng để cảm nhận được tầm quan trọng của chúng đối với sản phẩm và ý nghĩa của nó với chúng ta nhé!

Biên tập: Phương Thúy